Nội dung Triết học Mác - Lênin

NGUYỄN VĂN BÁCH
10/13/2024

Triết học Mác - Lênin là khoa học khái quát những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; đem lại cho con người thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn, khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin với ba nội dung cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật biện chứng; phép biện chứng duy vật và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.

1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Với trọng tâm là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, qua đó xác định chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và vấn đề khả năng nhận thức của con người. 

Chủ nghĩa duy vật biện chứng xác định vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất, con người nhận thứcđược thế giới và khả năng nhận thức của con người là vô hạn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp chúng ta xác định được trong xã hội đâu là vật chất, đâu là đời sống tinh thần, đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, nên muốn cải tạo xã hội, phát triển đất nước ta đi từ cái gốc của nó tức là đời sống vật chất.

Trong giai đoạn hiện nay, kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là chủ nghĩa Mác chỉ biết đến vật chất, kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức, tư tưởng. 

Thật ra hoàn toàn không phải như vậy, chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường không biện chứng mới phủ nhận hoặc xem nhẹ vai trò của các yếu tố tinh thần, ý thức mà thôi. Khi khẳng định vai trò của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại. Không thấy điều đó sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động. Nói tới vai trò của ý thức là nói tới vai trò của con người, bản thân của ý thức nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Theo Mác thì lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất, cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. 

Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện được các quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động. Tư tưởng, ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Thế giới vật chất với những quy luật khách quan của nó- không phụ thuộc vào ý thức của con người, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí.

2. Phép biện chứng duy vật

Phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.

Với những nội dung cơ bản là: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến; Nguyên lý về sự phát triển; các cặp phạm trù: cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình thức, khả năng và hiện thựcBa quy luật gồm Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; Quy luật phủ định của phủ định. Và lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Hai nguyên lý, ba quy luật, sáu cặp phạm trù và lý luận nhận thức giúp chúng ta hình thành quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm về sự phát triển, giúp chúng ta thấy được con đường, cách thức và khuynh hướng của sự phát triển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, giúp chúng ta nhận ra được những mặt quyết định trong các mối quan hệ, giúp chúng ta hiệu quả nhất.

Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: Một là, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng... Hai là, nguyên lý về sự phát triển, là dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. 

Đồng thời, phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao những nhân tố tích cực từ sự vật cũ, hình thành sự vật mới.

Hai nguyên lý trên giúp chúng ta hình thành quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển. Vận dụng quan điểm toàn diện vào trong hoạt động thực tiễn giúp chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa chính sách dàn đều và chính sách có trọng điểm. Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đảng ta cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới toàn diện thì đổi mới kinh tế là trọng tâm. Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực cả khách quan lẫn chủ quan. Chân lý sẽ biến thành sai lầm nếu chúng ta đẩy nó ra khỏi giới hạn tồn tại của nó. Quan điểm phát triển giúp ta hiểu được sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Vận dụng quan điểm này vào quá trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến. Nếu thiếu quan điểm khoa học như vậy thì rất dễ bi quan, dao động khi mà tiến trình cách mạng nói chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó khăn, trắc trở. Như vậy, 3 quan điểm trên là những nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

Nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận này không những là nhân tố cơ bảnđể hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, mà còn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động tự do sáng tạo và phát triển toàn diện con người.

Sáu cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật: Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.

Một là, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất: Phép duy vật biện chứng cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông quan cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài 

cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.

Hai là, nguyên nhân và kết quả: Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.

Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên: Tất nhiên (tất yếu) là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được. Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc xuất hiện như thế khác.

Bốn là, nội dung và hình thức: Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.

Năm là, bản chất và hiện tượng: Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng là biểu hiện ra ngoài của bản chất trong những điều kiện xác định.

Sáu là, khả năng và hiện thực: Khả năng là cái hiện chưa có, cái còn là tiền đề, là mầm móng khi có điều kiện thích hợp thì nó sẽ xuất hiện trên thực tế. Hiện thực là những gì đã tồn tại trên thực tế. Khả năng và hiện thực là hai mặt thống nhất của mọi quá trình vận động.

Các phạm trù trên phản ánh những thuộc tính bản chất nhất, những mối liên hệ chung tất yếu và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới từ tự nhiên đến xã hội và tư duy con người. Các phạm trù không phải là cái có sẵn ở bên ngoài hay bên trong ý thức của con người, mà nó được hình thành trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. 

Mỗi phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức trước đó và là mắc xích trung gian của quá trình nhận thức tiếp theo của con người để ngày càng tiến gần đến chân lý. 

Phạm trù được hình thành bằng phương pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của sự vật. Các phạm trù của phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, nó thường xuyên được bổ sung và làm phong phú thêm bằng những tri thức khoa học và những phạm trù mới. Với tư cách là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, các phạm trù luôn vận động và phát triển tương ứng với sự vận động, phát triển của thế giới khách quan. Chỉ có như vậy chúng mới phản ánh đúng đắn thế giới khách quan và trở thành công cụ của nhận thức và thực tiễn.

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại (quy luật lượng- chất): Đây là quy luật cơ bản và phổ biến về phương thức chung của quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy của con người. Chất và lượng là hai mặt thống nhất của mọi sự vật và hiện tượng hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và trong cả tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan, trong đó chất tồn tại thông qua lượng và lượng là biểu hiện của chất ra bên ngoài. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này lại là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại đóng vai trò là lượng.

Quy luật này chỉ ra rằng bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng. Việc nắm vững nội dung quy luật này có vai trò to lớn trong việc xem xét giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta đặt ra. Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất ở đó, và tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung. Như bất kì một sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp. Bất kì một sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể dẫn tới sai lầm, tổn thất, cản trở sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn):

Quy luật này là “hạt nhân” của phép biện chứng. Là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật. Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.

Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.

Quy luật này giúp chúng ta hiểu rằng mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại ở tất cả các sự vật và hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, nhưng ở các sự vật khác nhau, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành một sự vật sẽ có những mâu thuẫn khác nhau. Giải quyết mâu thuẫn là để phát triển, nhưng phải giải quyết mâu thuẫn khi có đủ điều kiện chín muồi, không nên giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có điều kiện, cũng không thể cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải cố gắng tạo điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.

Quy luật phủ định của phủ định: Đây là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và ngay cả trong tư duy của con người. Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng, mà là phát triển theo hình “xoáy ốc”. Quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của các sự vật. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Ph.Ăngghen khẳng định: “Phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, lịch sử và của tư duy”.

Phủ định biện chứng là cái mới ra đời thay thế cái cũ, là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định. Phủ định biện chứng yêu cầu phải kế thừa có chọn lọc và cải biến những yếu tố tích cực của cái cũ để phục vụ cho sự phát triển của cái mới. 

Đồng thời phải chống lại chủ trương kế thừa máy móc và phủ định sạch trơn. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải coi trọng giá trị truyền thống, vì nó là những giá trị vật chất và tinh thần được con người làm ra và bảo tồn từ đời này sang đời khác, nó là nền tảng mà trên đó các thế hệ nối tiếp nhau ra đời, kế thừa và phát triển. Sự ra đời và phát triển của cái mới không theo con đường thẳng tắp, mà theo đường xoắn ốc. Vì vậy trong công việc chúng ta phải biết phát hiện cái mới và tạo điều kiện để cái mới phát triển; thông thường cái mới ra đời gặp rất nhiều khó khăn, luôn phải đấu tranh với cái cũ, nhưng theo quy luật phát triển nhất định cái mới chân chính sẽ chiến thắng.

Lý luận nhận thức duy vật biện chứng: Phép biện chứng duy vật cho rằng nhận thức không phải là hành động giản đơn, nhất thời, được thực hiện một lần là xong mà nó là quá trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể để nhận thức chân lý khách quan. Lý luận nhận thức biện chứng duy vật tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất như:

Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức: Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.

Con đường biện chứng của nhận thức: Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn, hay còn gọi là đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính tuy là 2 giai đoạn của quá trình nhận thức, nhưng xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan làm đối tượng, nội dung phản ánh. Giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện được nếu thiếu những tri thức và tài liệu cần thiết do nhận thức cảm tính đưa lại. Như vậy, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn là con đường biện chứng của nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực tiễn vừa là tiền đề xuất phát, vừa là điểm kết thúc của một vòng khâu, một quá trình nhận thức. Nhưng kết thúc vòng khâu này thì lại là điểm bắt đầu của một vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá trình liên tục, vô tận của sự nhận thức chân lý khách quan.

Nhận thức khoa học và các trình độ nhận thức khoa học; vấn đề chân lý; sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu quá trình nhận thức của con người qua quan điểm của phép biện chứng duy vật giúp ta có những bước làm cụ thể để cải tạo hiện thực theo hướng tiến bộ, phát triển, các bước đó cụ thể là: Tổ chức hoạt động thực tiễn là khâu quyết định biến lý luận thành hiện thực, việc này yêu cầu phải tập hợp lực lượng thành khối thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động; có tri thức khoa học về đối tượng cải tạo; có kế hoạch thực hiện đồng bộ và chi tiết; phương án điều chỉnh hoạt động; lựa chọn phương tiện và phương pháp tác động thực tiễn; triển khai thực hiện kế hoạch; nắm bắt thông tin, phát hiện và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh trong thực tiễn; đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, khái quát lý luận đưa ra chương trình hoạt động mới. Như vậy việc tổ chức thực tiễn yêu cầu không chỉ tính đến hiệu quả kinh tế mà còn phải đảm bảo hiệu quả của những mặt khác như: Chính trị, an ninh quốc phòng, luật pháp, bảo vệ môi trường, sức khỏe, đạo đức, văn hóa...

3. Chủ nghĩa duy vật lịch sử

Với những nội dung cơ bản là: Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất; Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội và ý thức xã hội; 

Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội; vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội; quan niệm về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.

Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất: Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội. Là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất: 

Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố được sử dụng trong quá trình sản xuất tạo thành năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng tự nhiên theo nhu cầu của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình đó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu và phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thái kinh tế-xã hội, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.

Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị- xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thông qua nhiều phương thức. Điều đó tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. 

Trong đó nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế.

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội: Tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là: Phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số... trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi (nhất là phương thức sản xuất) thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học... tất yếu cũng sẽ biến đổi theo. Song, ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối của nó vì: Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội; ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội; ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội; sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng; ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.

Qua việc thấy được vai trò quyết định của sản xuất vật chất, của lực lượng sản xuất, của cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội... giúp Đảng ta vận dụng để hoạch định đường lối, chủ trương một cách khách quan, khoa học, phù hợp với mọi sự vận động và phát triển trong xã hội... để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế như hiện nay.

Hạt nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử là lý luận về hình thái kinh tế- xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã không dừng lại ở việc lý giải nguyên lý chung về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mà còn đi sâu phân tích kết cấu của xã hội, xác định vị trí, vai trò của từng yếu tố cấu thành xã hội, đồng thời xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố đó hình thành học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Có thể khẳng định rằng, trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là một trong những nền tảng lý luận quan trọng của lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Hình thái kinh tế- xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử "dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy"1.

Học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác ra đời là một cuộc cách mạng của khoa học xã hội nói chung và Triết học nói riêng. Khác với tất cả các lý luận duy tâm, thần bí hay siêu hình trước đó, học thuyết đó đã chỉ ra rằng, động lực của lịch sử không phải là một thứ tinh thần thần bí nào, mà chính là hoạt động thực tiễn của con người, mà hoạt động đó lại xuất phát từ cái sự thật hiển nhiên là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học,... C.Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định đối với tất cả mọi quan hệ khác, đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để thấy được các quy luật xã hội.

C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên”. V.I.Lênin giải thích thêm: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên. 

Và dĩ nhiên là không có một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội được”2.

Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại, vấn đề không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”3.

Toàn bộ những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế- xã hội đã trở thành cơ sở lý thuyết và phương pháp luận khoa học của sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, ta cần phải xây dựng từ đầu lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. 

Để có một hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa, trong thời kì đổi mới, hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đưa ra và thực hiện những quyết sách quan trọng như: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta có thể khẳng định rằng khi công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với việc ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, khi khoa học công nghệ cùng với giáo dục- đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nguồn lực con người là yếu tố quyết định mọi thắng lợi.

Tóm lại, Triết học Mác- Lênin với 3 nội dung cốt lõi là chủ nghĩa duy vật biện chứng; phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử là thế giới quan và phương pháp luận được gắn kết và thống nhất hữu cơ với nhau là do triết học Mác-Lênin hoàn toàn có khả năng nhận thức đúng đắn cả thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Triết học Mác- Lênin đã trang bị thế quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng và phương pháp luận khoa học để Đảng ta xây dựng chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch hành động và biến chúng thành hiện thực, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Những bài học quý giá của thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, của 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, những thành tựu của 35 năm đổi mới đất nước vừa qua là những bằng chứng sinh động thể hiện rõ vai trò, sức mạnh của vận dụng sáng tạo Triết học Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam.

1 Một số vấn đề về Chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, 1996, tr.18.

2 V.I.Lênin toàn tập, tập 1, 1980, Nxb. Macxcova, tr.163.

3 Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.12.

Xem thêm