Câu 1: Phân tích tư tưởng Triết học và chính trị
và đạo làm người trong lịch sử Việt
Trả
lời:
Tư tưởng về “Đạo” là một trong những vấn
đề mà các nhà tư tưởng Việt
Nho giáo với các nguyên lý chính trị - đạo
đức xã hội của nó đã đáp ứng được các yêu cầu đương thời. Lý thuyết “Tam
cương”, “Ngũ thường” của nho giáo tạo cho xã hội một ý thức trật tự, kỷ cương,
phù hợp với chế độ phong kiến. Con đường danh - lợi của nho giáo mở rộng về con
đường học vấn để làm quan để phò vua và phụng sự đất nước, v.v... Những nguyên
tắc đối nhân xử thế uyển chuyển đã chỉ ra con đuờng thoát khi thất thế, làm yên
tâm mọi người trên bước đường hoạn lộ. Do vậy, kẻ sĩ đều chọn con đường đạo Nho
và luôn đề cao đạo làm người của Đạo Nho.
Trên cơ sở các nguyên lý cơ bản của đạo
Nho thể hiện trong các tác phẩm kinh điển, nhưng sự lựa chọn và giải thích của
mỗi người có khác nhau. Các nhà nho yêu nước thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thời Nhiệm, v.v...
thì thường phát huy những khái niệm nào đó
của nhà Nho có sức diễn đạt được nội dung yêu nước, thương dân, yêu con người
và tin ở năng lực của con người. Các nhà Nho khác thì chú trọng đến tôn ti,
trật tự và đẳng cấp khắc nghiệt của Nho giáo. Do vậy, cũng đều là các nhà nho
nhưng giữa họ có những lập trường triết học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Cùng với Nho giáo thì Phật giáo lại có sức
hấp dẫn riêng khi giải quyết các vấn đề sống - chết, may - rủi, phúc - họa,
thường - biến, những vấn đề gắn với cuộc sống đời thường của mỗi người thì đạo
Nho không đáp ứng được. Đạo làm người trong tư tưởng triết học truyền thống
Việt
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta “Đạo”
được xem là quốc hồn, là biểu tượng của truyền thống yêu nước, thương nòi. Yêu
“Đạo” được coi là yêu nước, vì đạo mà chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập cho
đất nước. Nhưng vì “Đạo’ là thế giới quan cũ, không giúp các nhà nho yêu nước
hiểu được xu hướng tất yếu của thời đại.
Những thành tựu đạt được về mặt lịch sử tư
tưởng triết học của dân tộc là công lao của các nhà lãnh đạo đất nước, của các
nhà lý luận trong lịch sử. Họ đã vượt qua bao nhiêu khó khăn và hạn chế của
thời đại của bản thân để xây dựng lý luận về đạo trên nền tảng của chủ nghĩa
yêu nước Việt
Câu 2: Phân tích tư tưởng Triết học Việt
Phật giáo là một trường
phái triết học - tôn giáo điển hình của nền tư tưởng Ấn Độ cổ đại có ảnh hưởng
rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và
có số lượng phật tử đông đảo phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá vào
nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn
giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt
Từ khi du nhập Việt
Hiện nay, tư tưởng chủ
đạo, vũ khí lí luận của chúng ta trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên
CNXH là chủ nghĩa Mác-Lênin; nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng
của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều
in sâu vào tư tưởng tình cảm của một bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ
hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện được nên chúng ta cần vận
dụng một cách hợp lí để góp phần đạt được mục đích của thời kì quá độ cũng như
sau này.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam Phật giáo hiện
diện trong nền văn hóa Việt
Trước khi Phật giáo du
nhập Việt
Khi Phật giáo đến,
những tín ngưỡng này vẫn được duy trì, nhưng kết hợp với quan niệm Phật của Ấn
Ðộ, và kết quả là sự ra đời của tín ngưỡng theo mô hình mới: tín ngưỡng Phật
điện, hay còn gọi là tín ngưỡng Tứ Pháp, có thể xuất hiện vào thế kỷ thứ II.
Các vị thần Mây, Mưa, Sấm, Sét được Phật hóa để trở thành Phật Pháp Vân, Pháp
Vũ, Pháp Lôi và Pháp Ðiện, mà Phật Pháp Vân là biểu trưng và là hình tượng
trung tâm. Tín ngưỡng này là một trong những nét đặc thù của Phật giáo Việt
Nói khác đi, nền văn
hóa của nước ta thời bấy giờ là một nền văn hóa độc lập và đủ sức mạnh để tiếp
nhận và bản địa hóa Phật giáo, làm cho Phật giáo không còn là một yếu tố văn
hóa ngoại lai. Với tín ngưỡng Phật Pháp Vân, chúng ta không thể tìm ra hình ảnh
của Ðức Phật Ấn Ðộ, đồng thời nội dung của tín ngưỡng cũ cũng không còn nguyên
vẹn mà được bổ sung một nội dung mới. Do thế, Ðức Phật của người Việt cổ xưa
không phải là Ðức Phật theo nguyên mẫu đến từ Ấn Ðộ, mà đã được khúc xạ qua nền
văn hóa bản địa để trở thành một Ðức Phật đầy quyền năng, phò trợ cho nhân dân
và cả dân tộc Tín ngưỡng Phật Pháp Vân nói riêng và tín ngưỡng Tứ Pháp nói
chung là một trong những chỗ dựa về tâm linh của người Việt qua nhiều thời đại,
và tồn tại cho đến ngay nay. Tín ngưỡng này vẫn được tồn tại cho đến hôm nay,
đặc biệt thể hiện đậm nét ở miền Bắc nước ta, chiếc nôi của Phật giáo Việt
Nội dung cơ bản của tư
tưởng triết học Phật giáo
Tam tạng kinh điển của
Phật giáo rất đồ sộ có tới trên 5000 quyển được chia thành ba loại gồm Kinh
tạng – Luật tạng – Luận tạng (gọi là Tam tạng tức “ba kho kinh điển”). Về mặt
triết học thì quan trọng nhất là “Kinh” và “Luận”.
- Kinh tạng: Chép lời
Đức Phật giảng về giáo lý.
- Luật tạng: Ghi lại
việc tu tập và toàn bộ những giới luật của Phật giáo quy định
- Luận tạng: Luận tạng
do các bậc cao tăng viết ra nhằm giới thiệu giáo lý của Phật giáo một cách có
hệ thống, đó là những bài bình chú, giải thích gồm bảy bộ thể hiện một cách
toàn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật giáo.
Những tư tưởng triết
học cơ bản của Phật giáo gồm mấy vấn đề lớn sau:
- Thế giới quan Phật
giáo là một thế giới quan có nhiều yếu tố duy vật và biện chứng nhưng về cơ bản
triết học Phật giáo vẫn là triết học duy tâm chủ quan.
Đặc điểm:
+ Thế giới là vô tạo giả: Đây là nét độc đáo
của Phật giáo, không thừa nhận tồn tại Brahman sáng tạo ra thế giới và Atman –
linh hồn bất tử. Phật giáo cho rằng thế giới tồn tại khách quan không phụ thuộc
vào thần thánh, không do thần thánh sáng tạo ra, mặc dù Đạo Phật thừa nhận có
thần tiên là đẳng cấp cao hơn con người, nhưng thần tiên lại không có vai trò
đặc biệt, không sáng tạo thế giới. Theo Phật giáo, mọi sự vật hiện tượng đều có
nguyên nhân của nó nhưng không có gì xác định được nguyên nhân của mọi nguyên
nhân, tức không thể tìm ra một nguyên nhân đầu tiên (nghĩa là không có một Đấng
tối cao nào sáng tạo ra vũ trụ). Phật giáo thừa nhận thế giới tồn tại cả vật
chất và tinh thần: Thế giới do các yếu tố vật chất và tinh thần kết hợp với
nhau tạo nên. Vật chất gồm sắc là những yếu tố có hình thù như địa (đất), thủy
(nước), hỏa (lửa), phong (gió) và không là những yếu tố không có hình thù. Các
yếu tố tinh thần gọi là danh gồm thụ (cảm giác), tưởng (suy nghĩ, tư tưởng),
hành (suy lí), thức (ý thức). Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo
đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng về tính chất vô ngã và vô thường của
vạn vật.
+ Thuyết vô thường: Vô
thường có nghĩa là không có gì ổn định, bất biến. Phật giáo cho rằng thế giới
không có gì là vĩnh hằng mà thế giới là một dòng chuyển biến liên tục, tuyệt
đối. Luật vô thường chi phối vũ trụ, vạn vật, và con người. Thế giới biến đổi
không ngừng, sự biến đổi diễn ra trong khoảnh khắc gọi là niệm vô thường và sự
biến đổi diễn ra theo những chu kì nhất định gọi là nhất kì vô thường, mỗi chu
kì có 4 giai đoạn, ở thế giới vật thể nói chung là sinh, trụ, dị, diệt và ở thế
giới sinh vật nói riêng là sinh, lão, bệnh, tử. Thuyết vô thường là một trong
những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở của lý luận cho phương thức
sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý phật. Phật
giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật, đã xây dựng
nên thuyết nhân duyên.Nhân duyên là tư tưởng, giáo lý cơ thể hiện quan điểm của
Phật giáo đối với đời người, với tồn tại và sinh mệnh, là cơ sở triết học của
giáo thuyết cụ thể và tư tưởng quan trọng của Phật giáo, như nhân quả, không
hữu, trung đạo, bình đẳng, từ bi, giải thoát v.v… Nó là một luận thuyết tương
đối hợp lý về sự sinh thành diễn biến và về bộ mặt vốn có của thế giới; là thế
giới quan độc đáo của Phật giáo và là đặc trưng cơ bản để phân biệt Đạo Phật
với các tôn giáo khác.
Trong thuyết nhân duyên
có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở
vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân (nguyên nhân).
- Cái gì tập lại từ
Nhân được gọi là Quả.
- Duyên: là điều kiện,
mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một cái gì đó cụ thể,
xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của vạn
Pháp.
Phật giáo dùng thuyết
nhân duyên để giải thích nguồn gốc của tất cả các sự vật, hiện tượng. Tất cả
mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân. Nhân kết hợp với duyên thì sinh ra
quả. Quả lại kết hợp với duyên lại biến thành nhân và sinh ra quả khác… Như vậy
mối quan hệ nhân duyên bao trùm toàn bộ thế giới, thế giới đa dạng, phong phú,
nhiều hình vẻ cũng chỉ là một dòng biến hóa hư ảo vô cùng không có gì là thường
định, là thực và là không thực. Tất cả đều nằm trong một dòng sinh diệt bất
tận. Ở quan điểm này cho thấy một hạn chế của Phật giáo là chỉ thấy sự vận
động, tuyện đối hóa sự vận động mà không nhìn thấy sự đứng yên tương đối.
+ Thuyết vô ngã: phủ
nhận sự tồn tại vĩnh viễn của linh hồn cá thể, phủ nhận sự tồn tại thực sự của
con người, coi sự tồn tại của con người chỉ là giả hợp của các yếu tố danh và
sắc. Vì vậy không có cái tôi thường định, cái tôi hôm nay khác cái tôi hôm qua
và cái tôi ngày mai. Con người chỉ là sự hội tụ tạm thời giây lát của các yếu
tố vật chất và tinh thần rồi lại tan ra trong dòng chảy biến hóa tan hợp hợp
tan một cách vô tận.
- Nhân sinh quan Phật
giáo:
+ Triết lí nhân sinh và con đường giải thoát: Con
người không phải do Thượng đế sinh ra mà chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn bao gồm
sắc (vật chất: đất, nước, lửa, gió) và danh (tinh thần: hành, tưởng, thụ,
thức). Thuyết luân hồi, nghiệp báo: Phật giáo tuy bác bỏ Brahman và atman nhưng
lại kế thừa thuyết luân hồi, nghiệp báo trong đạo Balamôn. Con người sau khi
chết sẽ chịu sự luân hồi qua 6 kiếp: địa ngục, ác quỷ, attula, súc vật, người,
thần tiên. Muốn chuyển nghiệp thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử con người sẽ
phải tu luyện, tu hành, tu nhân tích đức. Cái chi phối luân hồi là nghiệp lực
(ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp) tức là hành vi, suy nghĩ của con người gây
ra ở kiếp trước quy định kiếp sau là gì, từ đó Phật giáo đưa ra con đường giải
thoát luân hồi sinh tử.
+ Tứ diệu đế: là bốn
chân lí cao cả về sự đau khổ của con người và con đường giải thoát. Đó là:
1/ Khổ đế: Theo Phật
giáo, đời là bể khổ. Ở đời có vạn sự khổ, vạn sự có thể biến thành cái khổ mà
khái quát lại có 8 cái khổ phổ biến là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái
biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, sở cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn khổ.
- Sinh khổ: Sự sinh
sống của con người khổ (khổ trong lúc sanh và khổ trong đời sống).
- Lão khổ: Con người đến lúc già, thân thể hao
mòn, suy kém, trí huệ lu mờ, khổ cả thể xác lẫn tinh thần.
- Bệnh khổ: Hành hạ xác thân con người, làm
cho nó khổ sở, không gì hơn là đau bệnh. - Tử khổ: Khổ của sự chết. Con
người sợ nhất là cái chết vì phải xa lìa vĩnh viễn tất cả bà con, của
cải.
- Ái biệt ly khổ: Khổ
của sự chia ly với những gì thân yêu.
- Oán tăng hội khổ: Ðây
là cái khổ gây ra do sự thù ghét, hiềm khích nhau mà cứ phải gần gũi, chung
đụng.
- Sở cầu bất đắc khổ: Khổ của sự mong cầu, hy
vọng mà không toại nguyện.
- Ngũ uẩn thủ khổ: Nỗi
khổ của sự tồn tại của con người. Khổ do sự bám víu, ái nhiễm của ngũ uẩn.
+ Tập đế (còn gọi là
Nhân đế): Phật giáo xác định 12 nguyên nhân của cái khổ: vô minh (ngu tối),
hành (suy nghĩ dẫn tới hành động), thức (hành động tác động đến ý thức), danh
sắc, lục nhập (6 giác quan của con người), xúc (tiếp xúc), thụ (cảm thụ), ái
(yêu thích), thủ (chiếm đoạt), hữu (sở hữu), sinh (xuất hiện), lão (già) và tử
(chết). Phật giáo nói đau khổ là vô tận (nước mắt chúng sinh nhiều hơn biển),
chết vẫn chưa hết khổ vì kiếp luân hồi.
+ Diệt đế: Theo Phật
giáo, ta có thể tiêu diệt được khổ do đã biết được nguyên nhân dẫn đến khổ; có
thể đoạn hết kiếp nghiệp, thoát khỏi vòng sinh tử và đến được cõi Niết bàn.
+ Đạo đế: Con đường
diệt khổ Phật giáo đưa ra bát chính đạo (8 con đường đúng đắn để diệt khổ):
- Chính kiến: thấy, xem
xét sự vật một cách đúng đắn. Chính kiến cũng có nghĩa là hiểu biết đúng đắn.
- Chính tư duy: suy
nghĩ đúng đắn.
- Chính ngữ: lời nói đúng đắn (không nói dối,
không nói lời ác, không nói chia rẽ; phải nói lời có ích, nói đúng chỗ, đúng
lúc).
- Chính nghiệp: hành vi
đúng, ứng xử đúng, làm điều thiện.
- Chính mệnh: sinh sống
lương thiện, tiết chế dục vọng và giữ giới luật.
- Chính tinh tiến: cố
gắng, nỗ lực phấn đấu một cách đúng đắn; siêng năng học tập, tu luyện, tìm kiếm
và truyền bá chân lí của Đức Phật.
- Chính niệm: thường xuyên tâm niệm chính
pháp, nhớ Phật, niệm Phật.
- Chính định: tập trung tư tưởng cao độ để suy
nghĩ về tứ đế, về vô ngã, vô thường để kiên định theo con đường chân chính của
Đức Phật.
Tám con đường này được gộp lại thành 3 điều:
Giới gồm chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, Định gồm chính tinh tiến, chính
niệm, chính định; Tuệ gồm chính kiến, chính tư duy. Muốn thực hiện được Bát
chính đạo thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian
ác gây thiệt hại cho mình và khuyến khích những người làm điều thiện có lợi ích
cho mình và cho người.
Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện
Ngũ giới (Năm điều răn) và Lục độ (Sáu phép tu).
- Ngũ giới gồm:
+ Bất sát: Không sát
sinh
+ Bất đạo: Không làm
điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm
dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan
giá họa cho kẻ khác, không nói dối.
- Lục độ gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức,
tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ không để cầu lợi hoặc
ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì
tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết
kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ
lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng
phải tập trung vào điều ngay, chính không để cho cái xấu cho lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết
mọi chuyện trên thế gian. Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực
hiện Bát chính đạo, Ngũ giới, Lục độ thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình
ra khỏi nỗi khổ.
Mục đích cao nhất của Đạo Phật là sự giải
thoát, bằng cách tu luyện để từ bỏ mọi ham muốn dục vọng đời thường, tiêu diệt
vô minh, đạt đến sự sáng suốt (sự giác ngộ), khi đó con người sẽ thoát khỏi
vòng luân hồi, nghiệp báo, hòa nhập với cõi vĩnh hằng - nhập Niết bàn. Như vậy,
Phật giáo là một trường phái triết học vô thần (mặc dù không triệt để), có yếu
tố duy vật, biện chứng. Phật giáo có ưu điểm là: chống lại sự phân biệt đẳng
cấp, chủ trương bình đẳng xã hội; khinh ghét những ham muốn dục vọng vật chất
tầm thường; có tính nhân đạo cao cả, khuyên con người làm điều thiện, tránh xa
điều ác, thương yêu, cứu giúp mọi người; không dùng bạo lực trong quan hệ giữa
các giáo phái khác nhau cũng như với các tôn giáo khác. Tuy nhiên, nhìn chung
tư tưởng triết học Phật giáo mặc dù có một số yếu tố duy vật vô thần và biện
chứng nhưng nhân sinh quan Phật giáo lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan (vì
giải thích nguồn gốc của khổ từ trong tâm, diệt khổ cũng từ trong tâm). Phật
giáo cho rằng nguyên nhân cơ bản của cái khổ là vô minh; và sự sáng suốt, giác
ngộ của con người là yếu tố quyết định sự giải thoát con người khỏi mọi đau
khổ. Nhận thức luận của Phật giáo cũng có tính chất duy tâm. Phật giáo không
thừa nhận vai trò của nhận thức cảm tính và tư duy, cũng như vai trò của hoạt
động thực tiễn đối với nhận thức. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ
người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo nhưng Phật
giáo không chủ trương giải phóng con người bằng cách mạng xã hội. Đứng trước bể
khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo
thế giới hiện thực. Phật cho cuộc đời là giả, ảo, mọi ham muốn đời thường đều
là tội lỗi; thế nhưng Niết bàn, cái mà Phật cho là thực tại thì không có gì làm
bằng chứng. Phật giáo chủ trương xa lánh cuộc đời, phủ nhận sự biến đổi, cải
tạo xã hội bằng thực tiễn cách mạng.
* Đạo đức Phật giáo
với xã hội Việt
Đức Phật dạy từ việc lớn như quốc gia,
chính sự đến việc nhỏ như hòa khí trong gia đình. Tư tưởng Từ bi, hỷ, xả, cứu
khổ, cứu nạn của nhà Phật vẫn đang được nhân dân Việt
Cùng với thời gian, Phật giáo Việt
*. Đạo đức Phật giáo với
việc xây dựng đạo đức, lối sống của người Việt
Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích
con người hướng thiện, đạo đức Phật giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác
dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức, hướng con người đến lối sống, vị tha, bình
đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh, đạo đức Phật giáo phù hợp với đạo đức lẽ
sống của con người Việt Nam và nó đã có những đóng góp tích cực trong việc xây
dựng một nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức
truyền thống đã được đặt ra.
Tính hướng thiện của Phật giáo là một
trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng bình đẳng, hòa bình của
Phật giáo phù hợp với xu hướng hòa đồng liên kết giữa các dân tộc trên thế giới
trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, lòng từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người
hoạn nạn, giữ vững tinh thần lá lành đùm lá rách của dân tộc, triết lý vô
thường, vô ngã giúp con người giảm bớt cái tôi vị kỷ…Những giá trị tích cực đó
của đạo đức Phật giáo càng được nhân lên với những hành động cụ thể như kẻ đói
được cho ăn, kẻ rách được cho mặc, người ốm đau bệnh tật được chăm sóc…Đạo đức
Phật giáo khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu: “hạnh
hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, “muôn việc ở thế gian không gì hơn
công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”. Thêm vào đó, những không gian chùa chiền của
Phật giáo luôn thu hút con người tìm về chốn tĩnh tâm, nơi chiêm nghiệm và cảm
nhận…Tất cả những điều đó là những giá trị đạo đức tích cực, thiết thực góp
phần giáo hóa con người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước cám dỗ của cuộc
đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện, coi
trọng tính nhân bản, coi trọng thiên nhiên…Bên cạnh đó, lối sống Phật giáo nêu
cao tinh thần “cư trần lạc đạo” đã góp phần xây dựng lối sống có trách nhiệm
với một ý thức không tham quyền cố vị, không bám lấy lợi ích vật chất, sống
thanh cao tự tại. Bởi theo định nghĩa của đức Phật, tham và sân là hai năng lực
tiêu cực mạnh mẽ nhất trong tâm thức con người, chúng che khuất tầm nhìn và làm
nhiễu loạn Phật tính của ta, cho nên, cũng theo Ngài, diệt trừ được tham và sân
đích thực là một thành tựu rất to lớn của con người. Như thế đạo đức Phật giáo
đã đóng góp những giá trị văn hóa tích cực vào việc xây dựng đạo đức lối sống
cho con người, nhất là cho tầng lớp trẻ hiện nay. Đặc biệt, đạo đức Phật giáo
còn góp phần rèn luyện một lối sống kham nhẫn, khắc kỷ. Đó là những hình thức
tu tập kiên nhẫn, vượt qua những cám dỗ của cuộc đời để lòng được thanh cao,
tâm hồn được giải thoát.
Ngày nay đạo đức Phật giáo đã góp phần
tích cực vào các phong trào phát triển xã hội, bảo vệ môi trường. Đặc biệt công
tác từ thiện với tinh thần cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật, hòa cùng truyền thống
lá lành đùm lá rách của dân tộc, tăng ni phật tử đã tổ chức cứu trợ cho đồng bào
bị thiên tai bão lụt, cho những vùng quê nghèo khó, cho những mảnh đời bất
hạnh…Những hoạt động từ thiện đó của đạo Phật cùng nhằm điều chỉnh tính cách,
lối sống, góp phần hình thành nhân cách của một con người có ích cho xã hội.
Câu 3: Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa khách quan và chủ quan. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận đối
với sự nghiệp đổi mới ở Việt
Trả
lời:
*
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan
Lênin đã chỉ ra
sự tương tác biện chứng phức tạp giữa cái chủ quan và cái khách quan. Vai
trò hàng đầu trong sự phát triển lịch sử - xã hội thuộc về các điều kiện khách
quan vốn quyết định tính chất và chiều hướng chủ yếu của các quá trình
xã hội. Nhân tố chủ quan, xét về nguồn gốc và các chức năng -
là sản phẩm của các điều kiện khách quan. Những tình cảm, tư tưởng,
ý chí, mong muốn đa dạng đều được xác định bởi các điều kiện khách quan.
Tuy nhiên, nhân
tố chủ quan không phải là hệ quả tự nhiên của các điều kiện khách quan. Nó
cũng có tính độc lập tương đối, có các tính quy luật phát triển, lôgich
riêng của mình và chỉ xét đến cùng mới bị quyết định bởi các điều kiện khách
quan.
Khi đã có các điều kiện khách quan cần
thiết thì nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định trong các cải biến xã hội.
Lênin đã từng viết: “Trong lúc các nước tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư bản
đang tan rã, trong lúc giai cấp đó tuyệt vọng và gặp cơn khủng hoảng, thì chỉ
có nhân tố chính trị đó mới là nhân tố quyết định... và chỉ ra rằng, vai trò
cải biến, tích cực của nhân tố chủ quan có thể biểu hiện chỉ khi nào, nó, thứ
nhất, dựa trên những điều kiện khách quan đã chín muồi, xuất phát từ
chúng; thứ hai, được chỉ đạo bởi các các quy luật phát triển xã
hội; thứ ba, được củng cố thêm bởi các khả năng vật chất cần
thiết; thứ tư, kịp thời, đúng lúc thể hiện hiệu lực của mình.
Việc
thiết lập sự cân bằng giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có
nghĩa là hoạt động của con người ngày càng trở thành hình thức hiện thực hóa
phù hợp hơn với các quy luật khách quan của công cuộc xây dựng CNXH. Các quá
trình xã hội phụ thuộc hơn vào tính tự giác và tính tổ chức của con người. Mọi
người, được trang bị tri thức về các quy luật khách quan, sẽ hướng toàn bộ quá
trình xã hội vào việc thực hiện các mục đích đặt ra từ trước một cách tự giác và
có kế hoạch.
Việc thiết lập
sự tương thích giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan diễn ra không
phải tức thì, mà đạt được nhờ kết quả cuộc đấu tranh kiên trì và dài lâu của
giai cấp công nhân, của tất cả nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng
sản. Sự thống nhất giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan bắt nguồn
từ việc các lợi ích của giai cấp công nhân, của tất cả những người lao động
trùng với các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội.
Biện
chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong thời kỳ xây dựng CNXH quy định
các biện pháp giải quyết các nhiệm vụ kiến thiết, trong đó phải tính đến cả sự
chín muồi của các điều kiện kinh tế - vật chất, trình độ tự giác và tính tổ
chức của quần chúng lao động, tức là nhân tố chủ quan. Ở đây cái khách quan chủ
yếu và về cơ bản vẫn xác định xu hướng và tính chất của sự phát triển lịch sử,
tạo ra những khả năng và tiền đề hiện thực để giải quyết các nhiệm vụ xã hội đã
được lịch sử xác định, quy định nội dung và giới hạn của hành động hiệu quả của
nhân tố chủ quan. Ý chí, lòng nhiệt tình, quyết tâm của con người, nếu chúng bị
tách khỏi các điều kiện khách quan, không tính đến các yêu cầu của các quy luật
khách quan đều dẫn đến chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Lênin chỉ rõ rằng, xây dựng CNXH là hoạt
động tích cực, tự giác của con người, được quy định bởi các nhu cầu, lợi ích,
khát vọng của họ như động lực lôi kéo mạnh mẽ sự phát triển xã hội. Chính các
lợi ích của con người nằm ở cả các điều kiện khách quan, lẫn của nhân tố chủ
quan.
Lênin cũng đề cao ý nghĩa to lớn của
việc kết hợp đúng đắn sự khuyến khích vật chất và khích lệ tinh thần đối với
lao động như là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thống nhất các điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan. Khuyến khích vật chất không mâu thuẫn với khích lệ
tinh thần, mà còn thúc đẩy sự phát triển và thể hiện của chúng. Khuyến khích
vật chất và động viên tinh thần bổ sung nhau và cùng tích cực thúc đẩy tinh
thần và thái độ lao động hăng say, tích cực.
Hiện nay, Đảng và nhân
dân ta đang giải quyết những nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và của
toàn bộ nền kinh tế. Những năm gần đây đầu tư cơ bản rất lớn. Tuy nhiên, các
thành tựu khoa học và kỹ thuật còn chậm được áp dụng vào sản xuất. Nhân tố chủ
quan, đặc biệt là trình độ và các hình thức quản lý, điều hành trong lĩnh vực
sản xuất vật chất chưa tương thích hoàn toàn với lực lượng sản xuất xã hội đã
có sự lớn mạnh vượt
bậc.
Đảng Cộng sản
Việt Nam được dẫn dắt bởi học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
“thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát
huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị” nhằm chuẩn bị các điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan, đảm bảo cho sự phù hợp với nhau để giải quyết thành công các nhiệm
vụ xây dựng đất nước hiện
nay.
Tuân theo tư tưởng của Lênin về biện
chứng của cái khách quan và cái chủ quan là một phương pháp luận giúp Đảng ta
nhận thức được sâu sắc hơn những thời cơ, thuận lợi, cũng như những thách thức,
khó khăn và đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp trong công cuộc xây dựng
và đổi mới đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
* Những điều kiện khách quan và điều kiện
chủ quan để nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
- Điều kiện chủ quan:
+ Năng lực lãnh đạo của Đảng: sau hơn 30
năm đổi mới, đủ bản lĩnh và kinh nghiệm tạo thế và lực nước ta mạnh hơn rất
nhiều, cơ sở vật chất được tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội ổn định.
+ Sự quyết tâm của toàn thể nhân dân ta:
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thông minh và anh dũng.
Kết quả của sự nghiệp phát triển KHCN,
Giáo dục và đào tạo đã tạo ra đội ngũ trí thức hoàn toàn có khả năng tiếp thu
KHCN để phát triển LLSX.
+ Đảng và Nhà nước ta có đủ bản lĩnh và
kinh nghiệm để nắm bắt thời cơ tranh thủ tối đa sự giao lưu, hoàn tác giúp đỡ
của các nước để phát triển đất nước.
- Điều kiện khách quan:
Xu
thế toàn cầu hóa, xã hội hóa LLSX trên quy mô toàn thế giới mở ra khả năng hợp
tác kinh tế, văn hóa, KHKT cho phép chúng ta tranh thủ được mọi nguồn lực bên
ngoài, biến thành nội lực để phát triển nền sản xuất.
Khoa học và công nghệ trên thế giới có bước
phát triển nhảy vọt, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu
mới…
* Cần phải hiểu sự “bỏ qua” như thế nào
cho đúng?
- Thứ nhất: + Đảng ta xác định rõ: sự bỏ qua chế độ
TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất TBCN và kiến
thúc thượng tầng TBCN.
+ Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đạt được chế độ TBCN: Đặc biệt là khoa học công nghệ để phát triển
LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
- Thứ hai: Đảng ta xác định tiến lên CNXH mặc dù là
con đường “rút ngắn” so với lịch sử tuần tự, song do tính chất đặc thù của điều
kiện nước ta; chúng ta phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng
đường, nhiều giai đoạn phát triển khó khăn phức tạp.
Không được chủ quan, nóng vội, đốt cháy
giai đoạn; đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học nghiêm ngặt, hiểu
biết các quy luật vận động của xã hội, và phải có nghệ thuật điều chỉnh thật
sát với tình hình thực tế.
- Thứ ba: Xã hội ở thời kỳ quá độ là một kết cấu
kinh tế mang tính chất “trung gian” với sự tồn tại của nhiều hình thức kinh tế,
xã hội mang tính chất quá độ.
Nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN, có
kết cấu đan xen hỗn hợp của các quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối khác nhau;
Xã hội còn tồn tại nhiều giai cấp và đấu tranh giai cấp, tình trạng bất bình
đẳng, sự phân hóa giàu nghèo chưa thể khắc phục được hoàn toàn.
Câu 4: Trình bày khái quát lịch sử phép biện chứng?
từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận biện chứng duy vật ?
Lịch sử
phép biện chứng
Tư tưởng
biện chứng đã hình thành ngay từ khi triết học ra đời. Trong quá trình phát
triển, phép biện chứng có ba hình thức cơ bản là phép biện chứng chất phác,
phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
1. Phép
biện chứng chất phác
Thời cổ đại,
do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển, nên các nhà
triết học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp, mang tính trực quan, cảm tính
để khái quát bức tranh chung của thế giới. Phép biện chứng chất phác thể hiện
rõ rệt trong “thuyết Âm – Dương”, “thuyết Ngũ – hành” của triết học Trung hoa
cổ đại, trong các hệ thống triết học của các nhà triết học Hy lạp cổ đại và
triết học Ấn độ cổ đại. Giá trị của phép biện chứng chất phác thể hiện ở ý
nghĩa vô thần, chống lại những quan điểm tôn giáo. Song phép biện chứng này
thiếu những căn cứ khoa học nên đã bị phép siêu hình xuất hiện từ nửa cuối thế
kỉ XV thay thế.
2. Phép
biện chứng duy tâm khách quan
Phép biện
chứng duy tâm xuất hiện trong triết học cổ điển Đức cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu
thế kỉ XIX. Thời kì này, khoa học đã đạt được những thành tựu xuất sắc trên
nhiều lĩnh vực khác nhau. Những thành tựu khoa học đó là cơ sở để đi tới những
khái quát mới về nội dung phép biện chứng.
Đại diện
tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm là Hêghen. Ông là người đầu tiên xây dựng
hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm với một hệ thống khái niệm, phạm trù và quy
luật cơ bản. Tính chất duy tâm trong phép biện chứng của Hêghen thể hiện ở chỗ
: Ông coi “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước, và trong quá trình vận động phát
triển, “ý niệm tuyệt đối” tha hóa thành giới tự nhiên và xã hội; cuối cùng lại
trở về với chính mình trong tinh thần tuyệt đối. Sai lầm của phép biện chứng
duy tâm khách quan của Hêghen là ở chỗ ông cho rằng biện chứng của ý niệm sản
sinh ra biện chứng của sự vật. Đó là phép biện chứng duy tâm khách quan, thiếu
triệt để, thiếu khoa học.
3. Phép
biện chứng duy vật
Kế thừa có
chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học trước đó, dựa trên cơ sở khái
quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử loài
cũng như thực tiễn xã hội, vào giữa thế kỉ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập
chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, về sau được V.I.Lênin
phát triển vào đầu thế kỉ XX, đem lại cho phép biện chứng một hình thức mới về
chất. Đó là phép biện chứng duy vật.
Phép biện
chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế của phép biện
chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng duy tâm
khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản chung
nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép biện chứng duy vật trở
thành một khoa học.
Phép biện
chứng duy vật được
xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những
quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát
nhất.
Ý nghĩa của phương pháp luận của phép biện
chứng duy vật
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của PBCDV là cơ
sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử-cụ thể và nguyên tắc
phát triển.
a) Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải
xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả các mặt, các mối liên hệ; đồng thời phải
đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối liên
hệ chủ yếu có vai trò quyết định.
Sự vận dụng quan điểm toàn diện trong sự
nghiệp cách mạng:
- Trong Cách mạng dân tộc dân chủ: Đảng ta
vận dụng quan điểm toàn diện trong phân tích mâu thuẫn xã hội, đánh giá so sánh
lực lượng giữa ta với địch, tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp.
- Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện, triệt để; đồng
thời phải xác định khâu then chốt. Nắm vững mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế,
đổi mới chính trị và đổi mới tư duy.
Đối lập với nguyên tắc toàn diện của PBC,
quan điểm siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó không
xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc xem mặt
này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời sự vật khác.
Chủ nghĩa chiết trung thì kết hợp các mặt
một cách vô nguyên tắc, kết hợp những mặt vốn không có mối liên hệ với nhau
hoặc không thể dung hợp được với nhau. Thuật nguỵ biện thì cường điệu một mặt,
một mối liên hệ; hoặc lấy mặt thứ yếu làm mặt chủ yếu.
b) Nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem
xét sự vật hiện tượng trong quá trình vận động phát triển: nó ra đời trong điều
kiện như thế nào? trải qua những giai đoạn phát triển như thế nào? mỗi giai
đoạn có tính tất yếu và đặc điểm như thế nào?
c) Nguyên tắc phát triển trong nhận thức
và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi khi xem xét
sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của
chúng: cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế
cái cũ, cái lạc hậu.
Câu 5: Phân tích nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn ? Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong sự ngiệp đổi mới ở Việt
Trả lời:
1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, quy định, tác
động qua lại với nhau, trong đó:
*Thực
tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của chân lý; sự
hình thành và phát của lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn; lý luận phải được kiểm nghiệm, được bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước
hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức. Chính trong
quá trình cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình
thành và phát triển. Thực tế lịch sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới
bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Trong quá trình này, con
người sử dụng các công cụ, phương tiện tác động vào các sự vật, hiện tượng,
buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính và tính qui luật, nhờ đó mà con người
có được những hiểu biết về thế giới khách quan. Ban đầu con người thu nhận
những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân
tích, tổng hợp, trừu tượg hóa, khái quát hóa... để xây dựng thành lý luận. Do
đó, có thể nói, thực tiễn cung cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận.
Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận. Những tri thức mà
chúng ta có được cho đến hôm nay hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều nảy sinh từ
hoạt động thực tiễn.
Quá trình cải tạo thế giới bằng hoạt động
thực tiễn cũng chính là quá trình hoàn thiện bản thân con người. Thông qua thực
tiễn, con người phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình.
Ph.Ăngghen viết: “Từ trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã
coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy
một mặt chỉ biết tự nhiên mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người
ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con
người, và trí tuệ con người phát đã phát triển song song với việc người ta
người đã học cải biến tự nhiên”
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực
tiễn, trí tuệ con người được phát triển, được nâng cao dần cho đến lúc có lý
luận, khoa học. Nhưng bản thân lý luận không có mục đích tự thân. Lý luận khoa
học ra đời vì chúng cần thiết cho hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói
một cách khác, thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Lý luận sau khi ra
đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải biến
thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi
chúng được vận dụng vào thực tiễn, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức
tạp, đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng
hạn, đó là những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên ở nước ta, về kinh
tế thị trường, về hoàn chỉnh hệ thống quan điểm đổi mới, v.v.. Qua việc làm
sáng tỏ những vấn đề trên, chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp
đổi mới đất nước.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức,
lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. C. Mác viết:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác
nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Thực tiễn
sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên, cần phải hiểu
tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng: tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối
vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối là ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi gia đoạn lịch sử có thể
xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối vì thực
tiễn không đứng im một chỗ mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là một qúa
trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ
quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người trở
thành những chân vĩnh viễn, tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển
của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn
phải được kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì vậy, những tri thức được thực
tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục được bổ sung,
điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện
chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như
chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực
tiến đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan
điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn
sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ
nghĩa xét lại.
*
Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đề ra mục tiêu,
phương hướng, biện pháp cho thực tiễn.
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem
thường lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái này, hạ thấp
cái kia và ngược lại. Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận lại trực
tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ
cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận có vai trò rất lớn đối với
thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông
qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường,
dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh giá vai trò và ý nghĩa lớn lao của lý luận,
Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng”
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng
thì biến thành "lực lượng vật chất". Lý luận có thể dự kiến được sự
vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ
những phương pháp hành động có hiệu quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Nhờ
có lý luận khoa học mà hoạt động của con ngươi nên chủ động, tự giác, hạn chế
tình trạng mò mậm, tự phát. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ, trong
khi khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ qui luật khách
quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hóa xã
hội. Điều đó làm cho các Đảng của giai cấp công nhân có thể vạch ra đường lối,
phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp hành động cho phù hợp với đặc điểm, hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi nước một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví
"không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi"
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính
gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực, do sự chi phối của
hệ tư tưởng và thái độ không khoa học nên lý luậncó nguy cơ xa rời cuộc sống và
trở nên ảo tưởng, giáo điều. Trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý
luận, V.I. Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý luận cách mạng không phải là giáo
điều, nó là "kim chỉ nam" cho hành động cách mạng; và lý luậnkhông
lại là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luậnluôn cần được bổ sung
bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì
sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh:
lý luận phải liên hệ với thực tế.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luậnsuông.
Sự hình thành và triển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã thể hiện tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luậnvà thực tiễn.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sự xã hội để xây
dựng nên hệ thống lý luận của mình. V.I.Lênin đã nêu một tấm gương sáng về sự
phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn mới. Trên cơ sở nghiên cứu
điều kiện nước Nga lúc đó, V.I. Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP) và
Người nhận xét: “toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi
về căn bản”
Như vậy, sức mạnh
của lý luậnlà ở chỗ nó gắn bó mật thiết với thực tiễn, được kiểm nghiệm, bổ
sung và phát triển trong thực tiễn.
2. Vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới của Việt
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo hơn 20 năm qua đã đạt được những thành tựu về kinh tế -
xã hội to lớn và có ý nghĩa lịch sử. “Đất
nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy
mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng
cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ
vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước
tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”1. Những thành tựu ấy có
nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân là Đảng ta luôn quán triệt tốt
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới. Bởi
lẽ, trên cơ sở quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước không ngừng được bổ sung, hoàn
thiện cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam; những căn bệnh giáo điều, kinh
nghiệm, chủ quan duy ý chí đã dần được khắc phục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông”2. Như vậy, thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải được hiểu trên tinh thần biện chứng:
thực tiễn cần tới lý luận (khoa học) soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn,
định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, không rơi vào mò mẫm, vòng vo,
mù quáng mất thời gian. Còn lý luận (khoa học) phải dựa trên cơ sở thực tiễn,
nảy sinh từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn, luôn liên hệ với thực tiễn và được
bổ sung, hoàn thiện, phát triển thông qua tổng kết thực tiễn có lý luận nếu
không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau. Không có thực tiễn sẽ không có
lý luận; ngược lại, không có lý luận
thì thực tiễn sẽ mất phương hướng. Thấm nhuần tinh thần ấy, Đảng Cộng sản Việt
Thứ nhất, trong quá trình lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn
thiện, phát triển lý luận cách mạng, trước hết là đường lối đổi mới.
Thứ hai, trong quá trình lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta luôn coi trong việc nâng cao trình độ lý luận
cho toàn Đảng.
Thứ ba, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới Đảng
thường xuyên, kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện lệch lạc, sai trái
về tư tưởng - lý luận, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt
Câu 6: Phân tích tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị Nhà nước trong hệ thống chính trị ? Liên hệ về đổi mới hệ thống chính
trị ở Việt
Trả lời:
* Phân
tích tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị Nhà nước trong hệ thống chính trị
Các khái niệm
- Chính
trị: là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ
liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã hội. Đây
là biểu hiện bề ngoài của chính trị. Thực chất, chính trị là mối quan hệ, sự
tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên trong xã
hội với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó, quyền lực chung (quyền
lực xã hội), gọi là quyền lực chính trị.
- Hệ thống
chính trị: là một hệ thống các tổ chức (thiết chế) gắn liền với quyền lực chính
trị của nhân dân, được tổ chức để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn do nhân
dân giao phó và ủy quyền; đây là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình dưới các hình thức, cấp độ khác nhau
- Hệ thống chính trị bao gồm toàn bộ các
tổ chức chính trị, được lập ra để thực hiện quyền lực chung của xã
hội - quyền lực chính trị.
- Quyền lực
chính trị của Nhà nước: Quyền lực chính trị là Quyền quyết định, định đoạt
của Nhà nước trong những công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt
động để bảo đảm sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp,
một chính đảng, tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy
trì quyền lãnh đạo; định đoạt, điều hành bộ máy nhà nước, cai quản
một xã hội.
Phân tích:
- Nhà nước
là một tổ chức đặc biệt của quyền lực Chính trị, hay nói cách khác Quyền lực
Nhà nước là trung tâm của quyền lực Chính trị. Bởi Nhà nước bao giờ cũng đứng
trung tâm đời sống Chính trị của mọi quốc gia, là sự biểu hiện tập trung của
các quan hệ chính trị trong các điều kiện lịch sử cụ thể.
- Quyền lực
nhà nước thông qua các cơ quan hành chính: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do
giai cấp thống trị thực hiện. Đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà
nước
- Quyền lực
nhà nước là quyền lực công cộng: thể hiện sức mạnh, ý chí chung của cả cộng
đồng dân cư sống trên cùng lãnh thổ, là quyền lực của một gia cấp, một liên
minh, hay của nhân dân lai động. Nên giai cấp thống trị cũng phải nhân danh xã
hội do đó quyền lực Nhà nước là quyền lực công cộng
- Quyền lực
Nhà nước mang bản chất của giai cấp thống trị về kinh tế: Nhà nước ra đời từ
trong cuộc xung đột các giai cấp, nên về bản chất nó là nhà nước của giai cấp
có thế lực nhất, giai cấp thống trị về kinh tế, giai cấp này thông qua nhà
nước, sử dụng quyền lực nhà nước thực hiện sự thống trị về chính trị đối với
toàn xã hội.
- Quyền lực
nhà nước hướng tới việc thực hiện các chức năng cơ bản (Chức năng thống trị
giai cấp, và chức năng công quyền)
* Liên
hệ về đổi mới hệ thống Chính trị ở Việt
Hệ
thống Chính trị ở VN
Hệ thống chính trị ở nước ta là tổ chức của chính trị và dân chủ,
được xác lập bởi tổ chức và hoạt động của một hệ thống thống nhất các thiết chế
bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
khác (Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013). HTCT nước ta có trách nhiệm và
quyền hạn thực hiện quyền lực chính trị theo ủy quyền của Nhân dân, phát huy
dân chủ để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng của chủ nghĩa xã hội theo dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức
theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, được chia làm bốn cấp: cấp trung
ương, cấp tỉnh (bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện
(bao gồm các huyện, quận, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh), cấp cơ sở (bao
gồm các xã, phường, thị trấn)
Đặc điểm của HTCT ở Việt
Tính
nhất nguyên chính trị
+ Không có chính đảng đối lập: Chế độ
chính trị ở Việt
+ Nhất nguyên về tổ chức
+ Nhất nguyên về tư tưởng: Tính nhất
nguyên chính trị của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính nhất nguyên tư
tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng
tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tính thống nhất
Vai trò của HTCT Việt
Hệ thống
chính trị Việt
LIÊN HỆ
ĐỔI MỚI:
Mục tiêu,
quan điểm, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã xác định mục tiêu, quan điểm, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu cuối cùng của
việc xây dựng hệ thống chính trị là nhằm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị ở nước ta nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”
Trong giai đoạn trước mắt,
Đảng ta xác định mục tiêu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị là:
“Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát
huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc"
Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị
Một
là, đổi mới đồng bộ,
phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công
cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị thể hiện trong việc hoạch định
đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì
không có mọi sự đổi mới khác. Trong những năm đầu, Đảng tập trung trước hết vào
việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh
tế - xã hội, tạo điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng,
củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời
sống xã hội, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Quá trình phát triển của sự
nghiệp đổi mới đã khẳng định sự kết hợp nhuần nhuyễn và bước đi đúng đắn đó.
Đại hội XI của Đảng khẳng định phải đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và chính trị.
Hai
là, đổi mới tổ chức
và phương thức hoạt động của hệ thông chính trị nhằm tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Ba
là, đổi mới hệ thống
chính trị một cách toàn diện đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: "Kiên
trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới
kinh tế theo lộ trình thích hợp..."
Bốn
là, đổi mới mối quan
hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với nhau và với xã hội,
tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội phát triển;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, việc đổi mới cơ cấu tổ chức, hoạt
động của hệ thống chính trị là cần thiết, để hệ thống chính trị hoạt động
có hiệu quả, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường.
Câu 7: Phân tích quan điểm của Nho
giáo về con người ? Liên hệ với việc phát huy nhân tố con người Việt
1. Vấn đề
con người và đào tạo con người
1.1
Quan niệm về con người
- Khổng
Tử cho rằng trong xã hội có hai hạng người. Đó là người quân tử và kẻ tiểu
nhân. Nho gia luôn đề cao mẫu người quân tử và coi thường kẻ tiểu nhân.
- Khổng Tử quan
niệm: Sinh ra là người quân tử thì mãi mãi là người quân tử, còn sinh ra
là kẻ tiểu nhân thì mãi mãi là kẻ tiểu nhân,
là người quân tử có thể làm những điều bất nhân, nhưng sinh ra là
kẻ tiểu nhân thì đừng mong ở họ có được những hành động có nhân.
1.2
Bản tính con người.
- Về vấn
đề bản tính con người thì các nhà Nho có nhiều ý kiến khác nhau, không
thống nhất với nhau.
- Là một nhà
triết học, nhà giáo dục lớn, lúc
sinh thời Khổng Tử cho rằng Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị
đạo, tu đạo chi vị giáo. Mạnh Tử cho
rằng Nhân chi sơ tính bản thiện. Con người ta sinh ra ai cũng có cái mầm thiện,
bởi vì ai cũng có cái tâm. Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác,
nguyên nhân của cái ác là do ái dục - ham muốn dục vọng, đi tìm sự thoả mãn dục vọng, sinh lý.
Cho nên nếu con người hoạt động theo bản tính tự nhiên thì sẽ dẫn đến tước
đoạt, vô luân. Vì vậy cần phải có lễ
nghĩa, khuôn phép, hình phạt để giáo dục ngăn ngừa.
1.3 Quan
niệm của Nho giáo về các mối quan hệ con người trong xã hội
- Các nhà
Nho đã rất quan tâm xây dựng năm mối quan hệ chủ yếu của con người trong xã hội
như: Quan hệ vua - tôi, cha - con,
chồng - vợ, trưởng - ấu, bằng - hữu.
a. Mối quan hệ vua - tôi.
- Thời
Khổng - Mạnh, quan hệ vua - tôi là quan hệ hai chiều, có đi có lại
vì sự nghiệp chung là trị nước an dân. Khổng Tử đặt ra vấn đề vua ra vua,
tôi ra tôi.
- Theo Mạnh Tử: Quan hệ vua - tôi phải lấy cái
nghĩa (Quân thần hữu nghĩa).
b. Mối quan hệ
cha - con.
- Đây là
mối quan hệ máu mủ, ruột thịt gần gũi nhất trong gia đình. Mối quan hệ
này luôn luôn được các nhà Nho khẳng định: Cha từ, con hiếu.
- Theo Mạnh Tử:
trong quan hệ cha - con phải lấy tình thân (Phụ tử hữu thân).
c. Quan
hệ vợ - chồng
- Theo
Mạnh Tử thì vợ - chồng phải tôn trọng nhau (Phu - phụ hữu biệt) .
- Nhưng Nho gia
lại rất đề cao vai trò vị trí của người chồng, là người giữ vai trò chủ
yếu trong gia đình, còn người vợ là thứ
yếu., luôn ở địa vị phụ thuộc. Cho nên Phu xướng phụ tuỳ.
- Càng về sau,
nhất là từ Đổng Trọng Thư (thời nhà Hán) trở đi, mối quan hệ bất
bình đẳng giữa vợ và chồng càng tăng, người vợ còn phải chịu ràng buộc
bởi: Tam tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.Tứ đức: Công, dung,
ngôn, hạnh.
d. Quan
hệ anh – em
- Mạnh Tử
cho rằng: Anh em trong gia đình phải có trên, có dưới, trước sau thuận hoà và phải tôn trọng quyền
huynh thế phụ-tôn trọng quyền anh trưởng trong gia đình. Anh, chị thay cha,
mẹ nuôi dạy các em trong gia đình,
điều hành mọi công việc trong gia đình khi cha, mẹ mất.
- Trưởng ấu hữu
tự - anh nói em nghe, em phải luôn vâng lời anh, chị,
nghe theo lời chỉ bảo của anh, chị thì gia đình anh em mới hoà
thuận và vui vẻ.
e. Quan
hệ bạn bè
- Chuẩn
mực của các mối quan hệ bạn bè là chữ tín: bằng hữu hữu tín. Nhờ có chữ tín mà
làm cho bạn bè vượt qua khó khăn, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, làm cho tình bạn mãi mãi bền vững.
- Tình bạn theo
quan niệm của Nho giáo được xây dựng không dựa trên tiền tài, danh
vọng, giàu sang, phú quý,
mà là nghĩa tình. Họ kết bạn với nhau để học tập lẫn nhau, động
viên, giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua mọi
khó khăn, hoạn nạn của cuộc sống.
- Khổng Tử cho
rằng: Quân tử học đạo thì yêu người, tiểu nhân thì dễ khiến. Nhưng ông
cũng có quan niệm: Đề cử người ngay thẳng lên trên hạng người cong queo
thì dân phục tòng và theo Khổng Tử muốn cho dân cung kính, trung thành và
khuyên nhau làm điều thiện thì : xử với dân nghiêm trang thì dân cung kính.Hiếu
thuận (với cha mẹ, người trên ), từ ái (với người dưới )thì dân trung thành.Cất
nhắc người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khuyên nhau làm điều
thiện.
1.4 -
Quan niệm của Nho giáo về nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín
a. Nhân:
Nhân là
chuẩn mực để đánh giá mối quan hệ giữa người với người, nên nhân là chỉ
đức hạnh của con người, là điểm khởi đầu
và là trung tâm của triết học Nho giáo.Khổng Tử rất trọng Lễ, nhưng ông còn
trọng Nhân hơn nữa vì ông cho là Lễ chỉ là ngọn, Nhân mới là gốc, Lễ là chính
sách, Nhân mới là tinh thần.Khổng Tử bảo : “ Người không có đức nhân thì lễ mà
làm gì?” ( Nhân nhi bất nhân, như lễ hà?Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?) Nhân
gồm chữ nhị là hai và chữ nhân là người, là tình người này đối với người khác.Không
có tình người thì làm sao hòa hợp với người khác được, người này người khác,
giai cấp này giai cấp khác chỉ coi nhau như kẻ thù, người trên ức hiếp người
dưới, người dưới chống đối người trên, cho nên Khổng Tử bảo :” Nhân gỉa tất hữu
dũng”, nhưng “dũng gỉa bất tất hữu nhân”
b. Lễ:
Thời đại
của Khổng Tử các nước tranh giành vương bá, kỷ cương, phép nước,
trật tự xã hội, lễ - nhạc hư
hỏng.
- Khổng Tử thấy
cần phải khôi phục lại lễ, bởi đó là đạo đức của con người từ vua cho đến
bề tôi: vua ra vua, tôi ra tôi,
cha ra cha, con ra con, để cho thiên hạ hữu đạo, xã hội yên ổn...
- Như vậy là
sau nhân, các nhà nho đã đề cao vai trò của lễ, dùng lễ để giáo dục
con người cho có đức nhân.
c. Nghĩa:
Là hành động
theo đúng đạo lý làm người, là gốc của đạo lý làm người. Khổng Tử luôn
nhấn mạnh vai trò của nghĩa, nghĩa không thể thiếu đối với con người.
- Thấy việc
nghĩa mà chẳng làm ấy là người chẳng có khí dũng, thấy việc đáng làm để
giúp người thế mà không chịu ra tay,
người như vậy là nhát gan không xứng đáng mặt người quân tử. Người quân
tử là người thấy việc nghĩa là làm. Thấy món lợi mà nghĩ tới điều nghĩa mà
chẳng phạm.
d. Trí:
Là sự
hiểu biết sâu rộng, người có trí sẽ không bị lầm lạc, không bị nghi
hoặc, không bị nghi lầm. Người có trí
mới phân biệt được đúng sai, điều hay lẽ phải, mới có sự cư xử và hành động đúng theo đạo
làm người.
- Khổng Tử nói:
Những lời dèm pha của kẻ độc hiểm thấm thía về lâu, những lời vu cáo của
kẻ ác làm cho đau đớn dường như banh da xẻ thịt, trước những lời ấy mình
đừng cảm động mà nghe theo, đó gọi là có
trí minh bạch sáng suốt...và phải đích thân thông suốt các viên hữu ti ( dưới
quyền mình ), tha tội nhỏ cho họ, đề bạt những người hiền tài. Trí (sáng suốt)
là biết người.Đề bạt người chính trực lên trên người cong queo thì có thể khiến
cho người cong queo hóa ra chính trực.
e. Tín:
Đức tín
là một phẩm hạnh của con người mà Nho giáo luôn chú ý giáo dục. Trong mối quan
hệ giữa con người với con người, đức tín thể hiện sự giữ lời hứa, lời giao ước trước sau như một. Lời nói với
việc làm thống nhất với nhau, từ đấy gây
được niềm tin cho con người.
- Khổng Tử rất
đề cao vai trò chữ tín, nhất là đối với người cầm quyền rất quan trọng.
Ông cho rằng: dân tin, dân yêu,
dân ghét, dân ủng hộ hay không ủng
hộ cũng từ chỗ chữ tín mà ra. Khổng Tử cho rằng đối với người cầm quyền thì
phải làm được ba điều: Túc thực, túc binh, thành tín.
- Như vậy học
thuyết Nho giáo luôn chú ý giáo dục con người trong xã hội về nhân - lễ - nghĩa
- trí - tín, và tất cả đều xuất phát từ nhân, hướng về nhân và để làm điều nhân.
2. - Về
đào tạo con người
2.1.- Đối
tượng đào tạo
- Học
thuyết Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội, chỉ tập trung giáo dục
con người về đức nhân, song đối tượng
lại rất rộng. Đối tượng chung mà Nho giáo đào tạo là: ai muốn học đều được dạy.
Khổng Tử khẳng định: Hữu giáo vô loại, và ông cũng là người đầu tiên mở
trường tư dạy học cho mọi hạng người để đào tạo những con người lương thiện, có
lễ nghĩa, nhất là đào tạo một hạng sĩ quân tử có nhân, trí, dũng để làm quan giúp nước . Ông dạy đủ lục
nghệ :lễ, nhạc, xạ, ngự,
thư, số như chương trình các
trường công.
Chúng ta nên
nhớ chữ học của Khổng Tử có nghĩa là học đạo học cách cư xử, cách làm người
trước hết, rồi mới tới văn, tới những kiến thức cần thiết:
“ Đệ tử nhập
tắc hiếu, xuất tắc để, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân; hành hữu dư
lực, tắc dĩ học văn”. ( Con em trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài thì
kính nhượng bậc huynh trưởng, thận trọng lời nói mà thành thực, yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức;
làm như vậy rồi mà còn dư sức thì học văn) ( tức thi – môn ăn nói ; thư – sử
đời trước; lễ –các thể chế, nghi lễ ; nhạc ; dịch…). Khổng tử biết là trong xã
hội có nhiều người xấu, nhưng cách xử sự của ông vừa nhân vừa trí. Ông bảo : “
Không tiên liệu rằng người ta gạt mình, đừng ức đóan rằng người ta không tin
mình, nhưng gặp những người như vậy là mình biết được ngay, như vậy là hiền đấy
! “Ông ghét một số người như bọn bẻm mép lợi khẩu, bọn gỉa đạo đức làm bộ cao
thượng, “ ghét người nói điều xấu của kẻ khác, ghét kẻ dưới mà hủy bang
người trên, ghét kẻ dũng cảm mà vô lễ, ghét người qủa cảm mà cố chấp, ghét kẻ bốc lột người khác để làm giàu
“.Nhưng ông cũng khuyên không nên ghét bỏ ai thái quá, nhất là kẻ bất nhân, vì
không cho họ cơ hội để ăn năn, gạt bỏ hẳn ra thì họ sẽ nổi lọan.Và ông khuyên
người ta phải khoan hồng, nhất là những kẻ ở địa vị cao.
Trong hơn ba
mươi năm ông đã đào tạo một số môn sinh có ít nhiều tài đức, có thể ra làm quan
được, và đã có năm sáu ngưòi lãnh chức vụ ở triều đình. Ông nhận định khả năng
đặc biệt của mỗi người để gặp cơ hội thì dùng :
Đức hạnh có :
Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiêm, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung.
Biện luận : Tể
Ngả, Tử Cống.
Chính sự :
Nhiễm Hữu, Qúy Lộ.
Văn học : Tử
Du, Tử Hạ.
Võ bị : Tử Lộ.
Ngoại giao : Tử
Hoa, Tử Cống.
Như vậy môn
sinh của ông có thể thành lập một nội các, gần thành một đảng chính trị
có chính sách rõ ràng.Trong lịch sử nhân loài, có lẽ Khổng Tử là người đầu tiên
làm được việc này.
2.2- Mục
tiêu đào tạo con người của Nho giáo
Mục tiêu
đào tạo con người của Nho giáo là xây dựng những mẫu người lý tưởng của xã hội.
Đó là kẻ sĩ, đại trượng phu và người quân tử.
a - Kẻ
sĩ:
Người đi
học nho là kẻ sĩ, con đường vào đời của kẻ sĩ là phải học, học giỏi
thì đi thi, thi đậu thì ra làm quan để
giúp nước cứu đời, chứ không phải học chỉ để biết.
Khổng tử sáng lập tư học dạy mọi hạng người về
sự tu thân, tề gia ;những người nào có tư cách, bất kỳ trong giới quý tộc hay
bình dân, ông dạy thêm cho lục nghệ để sau này có thể lãnh những trách nhiệm
lớn nhỏ trong việc trị nước.Hạng người đó dù làm quan hay không làm quan cũng
gọi là kẻ sĩ; nếu có tài đức cao thì ông gọi là quân tử.Giai cấp sĩ đó chính là
do ông tạo nên.Khổng Tử nói : “ Người đời xưa học vì mình, người đời nay học vì
người”, và “ rất ít người học ba năm rồi mà không có ý cầu bổng lộc ”.Học
vì mình nghĩa là học để tu thân, có ích lợi cho mình;học vì người là học để có
danh, nhiều người biết tới mình, chẳng cần mình có thực tài thực đức.Ông khuyên
: “ đừng lo người không biết mình, chỉ lo mình không biết người.”, “ đừng lo
không ai biết mình chỉ mong sao mình có tài đức để cho người ta biết đến
”, Không nên cầu danh mà cũng không được
cầu lợi cầu lộc: “ đừng lo không có chức vị, chỉ lo không đủ tài đức để nhận
chức vị”, “ kẻ sĩ nào để chí vào đạo mà còn thẹn vì cái ăn cái mặc thì
chưa thể đem đạo ra bàn với được.”
Kẻ sĩ đã ra làm
quan, nho giáo phân làm bốn hạng:
1/Hạng
trên cả :biết hổ thẹn về hành vi xấu của mình;đi sứ bốn phương thì không làm
nhục mệnh của vua.
2/Hạng
thấp hơn:họ hàng khen là người hiếu, hàng xóm khen là người để.
3/Hạng
thấp hơn nữa : lời nói nhất định phải tín thực, hành vi nhất định phải quả
quyết.
4/Hạng
cuối : khí độ nhỏ nhen.
Nhiều nhà
Nho cho rằng đã là kẻ sĩ thì phải luôn trau dồi đức hạnh, phải bỏ lợi mà
làm điều nghĩa, phải không tiếc tính
mạng, trọng nghĩa lý, thành kính trong việc tế lễ ;về việc tu thân giữ
đức phải kiên cường, dốc lòng tin
đạo.Thời phong kiến sĩ được xã hội thời bấy giờ tôn làm giai cấp đứng đầu trong
xã hội : Sĩ, công, nông, thương.Tử Tư nói:” người xưa có nói:nên thờ bậc hiền
sĩ như thầy chứ đâu có nói nên làm bạn với kẻ sĩ”, còn Mạnh Tử thì nói: “Thiên
hạ đều tôn trọng ba cái này : tước vị, tuổi tác, và đạo đức.Tại triều đình tước
vị được qúy nhất; ở làng xóm tuổi tác được trọng nhất; còn xét về việc giúp
đời, giáo hóa dân thì đạo đức được kính nể hơn cả”.
Như vậy thì
khắp thế giới, không đâu có bọn áo vải nào được tôn trọng như kẻ sĩ ở Trung
Hoa. Đó là một niềm vinh dự cho dân tộc Trung Hoa và công đầu là của
Khổng Tử.
b - Đại
trượng phu
- Đây là
những con người bất khuất, cứng rắn,
là một trong những mục tiêu đào tạo con người của Nho giáo để phục vụ
cho giai cấp thống trị. Khổng Tử nhấn mạnh ý chí bất khuất của người trượng phu
trước phong ba bão táp vẫn vững vàng, không bị nghiêng ngả, và có ý chí kiên định đầu đội trời, chân đạp
đất, nói năng và hành động một là một hai là hai.
- Còn Mạnh Tử
thì cho rằng: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. Có nghĩa là người
trượng phu thì giàu sang không bị mua chuộc, nghèo khó không hề nản lòng
và uy lực không bị khuất phục. Chỉ có như vậy thì mới xứng đáng là đại trượng
phu.
c - Người
quân tử
Quân tử
của Nho giáo thuần chỉ tư cách, không có ý nghĩa về địa vị:
“Người quân tử mưu cầu đạt đạo, chứ không mưu
cầu chuyện ăn.người quân tử lo không đạt đạo chứ không lo nghèo.”
“ Người quân tử
khi khốn cùng thì cố giữ tư cách của mình;kẻ tiểu nhân khốn cùng thì phóng túng
làm càn”.
Tư cách và thái
độ người quân tử:
-Chỉ cầu ở mình
không cầu ở người.
-Giữ vững chính
nghĩa, không cố chấp điều tín nhỏ nhặt.
-Giữ vững tư
cách khi gặp họan nạn.
-Lo không đạt
được đạo chớ không lo nghèo.ăn gạo xấu, uống nước lã mà thấy vui;chứ không chịu
làm điều bất nghĩa để được giàu sang.
-Thư thái mà
không kiêu căng.
-Không lo không
sợ, vì tự xét mình không có điều gì đáng xấu hổ, nghĩ vậy mà lúc nào cũng thản
nhiên vui vẻ.
-Nếu có hận thì
chỉ hận điều này; chết mà không làm điều gì để người khác biết tới mình, khen
mình.
-Thân với mọi
người mà không kết đảng, hòa hợp với mọi người mà không a dua.
-Nghiêm trang
giữ lập trường mà không tranh với ai.
-Có lỗi thì
không ngại sửa.
Đức của người
quân tử:
-Có đức nhân,
giúp người làm việc thiện.
-Trọng nghĩa:
cứ hợp nghĩa thì làm.Lấy nghĩa làm gốc, theo lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ
thành tín mà nên việc.
-Sửa mình thành
người kính cẩn.
-Chất phác mà
văn nhã, hai phần đều nhau, nếu chất phác thì quê mùa, văn nhã quá thì không
thành thực, trọng hình thức quá.
-Hướng lên cao
mà mong đạt tới.
Tài năng và
kiến thức của người quân tử:
-Hiểu rộng,
biết nhiều, làm được nhiều việc, chứ không phải như một đồ vật chỉ dung được
vào một việc.
-Có thể không
biết những việc nhỏ nhặt, nhưng có thể đương được việc lớn.
-Tài trí đủ để
trị dân, biết dùng đức để giữ dân, biết trang nghiêm đối đãi với dân, biết dùng
lễ cổ vũ dân.
Hành vi ngôn
ngữ của người quân tử:
-Thận trọng về
lời nói, mau mắn về việc làm.
-Làm trước điều
mình muốn nói rồi hãy nói sau.
-Thẹn rằng nói
nhiều mà làm ít.
-Sai khiến
người thì không trách bị cầu tòan.
-Xét người thì
không vì lời nói của một người mà để cử người đó ( vì còn xét đức hạnh ra sao
nữa), không vì phẩm hạnh xấu của người mà không nghe lời nói phải của
người ta.
-Khi trông thì
để ý để thấy cho minh bạch;khi nghe thì lắng tai nghe cho rõ;sắc mặt thì giữ
cho ôn hòa;diện mạo thì giữ cho đoan trang ;nói thì giữ cho trung thực;làm thì
giữ cho kính cẩn;có điều nghi hoặc thì hỏi han ;khi giận thì nghĩ đến hậu qủa
tai hại sẽ xảy ra;thấy mối lợi thì nhớ đến điều nghĩa.
Khổng tử
nói : “ Người quân tử có điều gì không biết thì không nói bậy.Nếu danh không
chính thì lời nói không thuận lý, lời nói không thuận lý thì sự việc không
thành; sự việc không thành thì lễ nhạc, chế độ không kiến lập được; lễ nhạc,
chế độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng;hình phạt không trúng thì
dân không biết đặt tay chân vào đâu ( không biết làm thế nào cho phải ).Cho nên
người quân tử đã cùng cái danh thì tất phải nói ra được (tất phải thuận lý); đã
nói điều gì tất phải làm được.Đối với lời nói người quân tử không thể ẩu tả
được”.
Có thể
nói đạo của Khổng Tử là đạo của người quân tử. Cho nên mục tiêu đào tạo con
người của Nho giáo là đào tạo người có đức nhân. Theo Nho gia thì người quân tử
là mẫu người lý tưởng nhất, cao quý nhất của xã hội phong kiến.
Nho giáo cho là
đức hạnh của người quân tử như gío, mà đức hạnh của người dân như cỏ.Gío thổi
thì cỏ tất rạp xuống.
Liên hệ
với việc phát huy nhân tố con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
Từ khi đổi mới đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn xác định, con người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội. Do đó, việc phát huy nhân tố con người được coi là một nhiệm vụ trọng
yếu, một khâu đột phá chiến lược. Để phát huy nhân tố con người Việt
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhân
tố con người, nhưng theo một nghĩa chung nhất, có thể hiểu: “Nhân tố con người
là tổng thể các yếu tố có liên quan đến con người, là sự thống nhất biện chứng
giữa các mặt chủ quan và khách quan để tạo nên năng lực, phẩm chất và trí tuệ
của con người được hình thành và phát huy tác dụng vào trong thực tiễn sản xuất
vật chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng, quốc gia
trong những giai đoạn lịch sử nhất định”1.
Xuất phát từ hiện thực khách quan, trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta luôn đặt
con người vào vị trí trung tâm của mọi sự phát triển và coi việc phát huy nhân
tố con người là một trong những nhiệm vụ chiến lược. Do đó, Đảng ta đã có nhiều
quan điểm, chủ trương đúng đắn về phát huy nhân tố con người. Quan điểm, chủ
trương của Đảng về phát huy nhân tố con người có sự phát triển theo hướng ngày càng
rõ nét và hoàn thiện hơn qua mỗi thời kỳ Đại hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
(năm 1991), trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”, Đảng ta khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo
đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá
nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”2. Như vậy, ở Đại hội này, phát huy nhân
tố con người được hiểu là sự đảm bảo giữa quyền và lợi ích của công dân; nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; đáp ứng cả nhu cầu trước mắt
và lợi ích lâu dài… Đây là một quan điểm khá toàn diện mở đường cho những quan
điểm tiến bộ về phát huy nhân tố con người ở các kỳ Đại hội sau này.
Ở Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta khẳng
định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là một quá trình phát
triển mang tính cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, nó không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là sự nghiệp
của quảng đại quần chúng với tư cách là nguồn lực quyết định. Nguồn lực cơ bản,
to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có
thể đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn này: “Nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân
tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”3. Nhân tố
con người chính là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực
lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương
thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy
nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững không thể không
chăm lo phát triển con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển.
Từ sau Đại hội VIII, Đảng đã ban hành
nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm
của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu rõ: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”4. Mục
tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết tha gắn
bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời xác định: Giáo
dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu; giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn
Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; phát triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa họ - công nghệ và củng cố
quốc phòng, an ninh; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; giữ
vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình
giáo dục, đào tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý. Phát triển nguồn lực
con người một cách toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ,…; phát
triển nguồn nhân lực phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội bằng nhiều biện pháp, trong đó giáo dục và đào tạo là then chốt;
mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối quan
hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách,
trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng
đồng Việt Nam, cho xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng,
mạnh về chất lượng.
Đại hội X, Đảng ta đã xác định cần phải
tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt
Có thể nói, Đại hội X đã thể hiện tư duy
đổi mới, khoa học của Đảng trong xây dựng con người Việt Nam là xây dựng nhân
cách của con người Việt Nam với nội dung toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển
thể lực, năng lực trí tuệ với phương pháp tư duy khoa học sáng tạo, không ngừng
nâng cao trình độ học vấn, văn hóa, nhận thức tư tưởng, thế giới quan, đạo đức
cách mạng, kế thừa những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những
yêu cầu của con người mới trong xã hội công nghiệp, văn minh, hiện đại,... Xây
dựng con người Việt Nam hướng tới sự phát triển không chỉ chất lượng cá thể con
người, mà còn là sự phát triển của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, trước hết là
chất lượng phát triển của giai cấp công nhân với vai trò, sứ mệnh dẫn dắt xã
hội của khối liên minh công - nông - trí thức - lực lượng cơ bản nhất của xã
hội. Xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm phát triển nguồn nhân lực cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới tương lai, cần tập trung đầu
tư của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam, chuẩn
bị đầy đủ cho họ lập thân, lập nghiệp; có đủ sức khoẻ, tài năng, đạo đức, ý
thức và bản lĩnh chính trị.
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Con
người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa là động lực, vừa là
mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước; gắn vấn đề nhân tố con
người với tinh thần nhân văn nhằm tạo điều kiện cho con người phát triển toàn
diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái với những quan hệ xã hội lành
mạnh. Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của
chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát
triển”5.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011-2015, Đảng ta xác định: tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; nâng
cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; con người là trung tâm
của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo chuyển biến
mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người.
Đại hội XI của Đảng nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng
đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được coi là khâu đột phá thứ hai.
Đồng thời, Đại hội XI đưa ra quan điểm phát huy nhân tố con người trên cơ sở
“Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”6. Nghị quyết số 29-NQ/TW
ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) của Đảng về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục
là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Hội nghị
Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước tiếp tục khẳng định: Xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện -
mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực
sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ở Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Thực
hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng: gắn nhiệm vụ
xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn
xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng con người; bước đầu hình thành những
giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công
dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên”7. Từ nhận định này, có
thể nhận thấy thành tựu to lớn của nước ta trong thời gian qua trong phát triển
con người là đã xây dựng được một hệ giá trị mới của con người Việt
Kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội
trước, nhất là từ Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (tháng 5/2014); xuất phát từ
thực tiễn phát triển con người Việt Nam trong thời gian qua; ở Đại hội XII,
Đảng ta đã đưa ra mục tiêu tổng quát về xây dựng, phát triển con người như sau:
“Xây dựng và phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”8. Ở
Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đã gắn nhân tố con người gắn với xây dựng văn
hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đôi biện
chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các giá trị,
sản phẩm văn hoá. Ngoài ra, yếu tố con người đề cập lần này là những con người
rất cụ thể, con người phải có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực, kỹ năng,
trách nhiệm xã hội,… việc xây dựng con người phải thông qua hoạt động thực
tiễn, cụ thể của từng người, chứ không nói chung chung. Trong 6 nhiệm vụ trọng
tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta đã chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể của việc
phát huy nhân tố con người như: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối
sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”9.
Đại hội XII khẳng định: “Xây dựng con
người Việt
Những quan điểm của Đảng về phát huy nhân
tố con người trong suốt chặng đường phát triển có tác động rất lớn đến việc
phát huy nhân tố con người trong giai đoạn hiện nay. Nhờ có những chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, trình độ dân trí ngày càng cao, đời sống của
người dân được cải biến rõ nét, con người được tạo điều kiện phát triển toàn
diện, cả về thể chất lẫn tinh thần; cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Đảng ta
luôn luôn thể hiện sự quan tâm, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh
phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Thực hiện lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người” đã luôn trở thành tư tưởng xuyên suốt trong
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta
Câu 1: Phân tích tư tưởng Triết học và chính trị và đạo làm người
trong lịch sử Việt Nam ? Liên hệ với quá trình dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam ? (1)
Lịch sử quốc gia dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là
lịch sử dựng nước và giữ nước gắn bó với nhau. Dựng nước luôn luôn gắn chặt với
giữ nước, trong đó dựng nước là yếu tố cơ bản. Phải xây dựng được đất nước hùng
mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng chiến thắng các thế lực thù địch và
phải giữ được nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Trong quá trình hình
thành và phát triển, truyền thống đó có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ tư tưởng và
các thành quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta.
Hơn
lúc nào hết, lúc này dựng nước và giữ nước phải gắn bó chặt chẽ với nhau. Chính
phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ quan trọng để xây
dựng chính quyền dân chủ nhân dân; phát động chiến dịch tăng gia sản xuất chống
giặc đói, xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt; củng cố lực lượng vũ trang chống giặc
ngoại xâm.
Câu 2: Phân tích tư tưởng Triết học Việt Nam dưới góc độ kế thừa
tư tưởng triết học Phật giáo của Ấn Độ và Tư tưởng triết học Nho giáo của Trung
Quốc? Liên hệ với vấn đề đạo đức của người Việt Nam trong đời sống tinh thần?
(2)
Câu 3: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ
quan. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam (7).
Câu 4: Trình bày khái quát lịch sử phép biện chứng? từ đó rút ra
ý nghĩa phương pháp luận biện chứng duy vật ? (10)
Câu 5: Phân tích nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
? Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự ngiệp đổi
mới ở Việt Nam. (12)
Câu 6: Phân tích tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị Nhà
nước trong hệ thống chính trị ? Liên hệ về đổi mới hệ thống chính trị ở Việt
Nam hiện nay.(15)
Câu 7: Phân tích quan điểm của Nho giáo về con người ? Liên hệ
với việc phát huy nhân tố con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ?
(18)