Bản chất, đối tượng và phương pháp nghiên cứu khoa học quản lý

NGUYỄN VĂN BÁCH
8/13/2022

1. BẢN CHẤT CỦA QUẢN LÝ

1.1.Vai trò của quản lý

Để tồn tại và phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà cần phối hợp những nố lực cá nhân hướng tới mục tiêu chung. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, con người đã sớm biết quy tụ nhau thành bầy, nhóm để tồn tại và phát triển. Sự cộng đồng sinh tồn này dẫn đến sự hình thành các tổ chức với nội dung liên kết con người cùng hoạt động theo một định hướng với những mục tiêu xác định. Quá trình tạo ra của cái vật chất, tinh thần cũng như đảm bảo cuộc sống an toàn cho cộng đồng xã hội ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn hơn, với tính phức tạp ngày càng cao hơn, đòi hỏi phải có sự phân công và hiệp tác để liên kết những con người trong tổ chức.

Chính từ sự phân công chuyên môn hoá và hiệp tác lao động đã làm xuất hiện một dạng lao động đặc biệt – lao động quản lý. C.Mác đã chỉ rõ: “Bất cứ một lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà các hoạt động cá nhân… Một nghệ sĩ độc tấu tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. (C.Mác, Tư bản, quyển 1 tập 2 trang 28-30 NXB Sự thật Hà Nội 1993).

Như vậy, quản lý là một tất yếu khác quan của mọi quá trình lao động xã hội, bất kể hình thái kinh tế - xã hội nào. Nếu không thực hiện các chức năng và nhiệm vụ quản lý, không thể thực hiện được các quá trình hợp tác lao động, sản xuất, không thể khai thác, sử dụng có hiệu quả các yếu tố của lao động sản xuất.

Quản lý cần thiết đối với mọi phạm vi hoạt động trong xã hội, từ mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, từ một gia đình, một đơn vị dân cư đến một quốc gia và những hoạt động trên phạm vi khu vực và toàn cầu.

Quản lý chính là yếu tố quyết định nhất cho sự nghiệp phát triển của quốc gia và các tổ chức. Vai trò của quản lý đối với các tổ chức thể hiện trên các mặt:

· Quản lý nhằm tạo sự thống nhất ý chí và hành động giữa các thành viên trong tổ chức, thống nhất giữa người quản lý với người bị quản lý, giữa những người bị quản lý với nhau. Chỉ có tạo ra sự thống nhất cao trong đa dạng thì tổ chức mới hoạt động hiệu quả.

· Định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu chung và hướng mọi nỗ lực của các cá nhân, của tổ chức đó vào việc thực hiện mục tiêu chung đó.

· Quản lý phối hợp tất cả các nguồn lực của tổ chức (nhân sự, vật lực, tài chính, thông tinh…) để đạt được mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao.

Mục đích của quản lý là đạt được giá trị tang cho tổ chức.

Môi trường hoạt động của tổ chức luôn có sự biến đổi nhanh chóng. Những biến đổi nhanh chóng của môi trường thường tạo ra những cơ hội và nguy cơ bất ngờ. Quản lý giúp tổ chức thích nghi được với môi trường, nắm bắt và tận dụng tố hơn các cơ hội và giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của các nguy cơ từ môi trường, đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của tổ chức.

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với quản lý. Những yếu tố sau đây làm tăng vai trò của quản lý, đòi hỏi quản lý phải thích ứng:

· Thứ nhất, sự phát triển không ngừng của nền kinh tế cả về quy mô, cơ cấu và trình độ khoa học – công nghệ làm tăng tính phức tạp của quản lý, đòi hỏi trình độ quản lý phải được nâng cao tương ứng với sự phát triển kinh tế.

· Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra với tốc độ cao và quy mô rộng lớn trên phạm vi toàn cầu khiến cho quản lý có vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự phát huy tác dụng của khoa học – công nghệ với sản xuất và đời sống. CUộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển theo nhiều hướng như vật liệu mới, năng lượng mới, điện tử, tin học, viễn thông, công nghệ sinh học… đã tạo ra những khả năng to lớn về kỹ thuật và công nghệ. Tuy nhiên, khoa học – công nghệ không thể tự động xâm nhập vào sản xuất với hiệu quả mong muốn, mà phải thông qua quản lý. Muốn phát triển khoa hoc – công nghệ, kể cả việc tiếp nhậnm chuyển giao từ nước ngoài vào và ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống, Nhà nước và các tổ chức phải có chính sách và cơ chế quản lý phù hợp.

· Thứ ba, trình độ xã hội và các quan hệ xã hội ngày càng cao đòi hỏi quản lý phải thích ứng. Trình độ xã hội và các quan hệ xã hội thể hiện ở các mặt:

- Trình độ giáo dục và đào tạo, trình độ học vấn và trình độ văn hoá nói chung của đội ngũ cán bộ, người lao động và của các tầng lớp dân cư.

- Nhu cầu và đòi hỏi của xã hội về vật chất và tinh thần ngày càng cao, càng đa dạng và phong phú hơn.

- Yêu cầu dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội, yêu cầu của người lao động được tham gia ngày càng nhiều hơn vào việc quyết định những vấn đề quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước cũng như việc của mỗi tổ chức.

· Thứ tư, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra nhanh chóng.

Theo xu thế này, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Sau khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nói chung, các tổ chức nói riêng đang đứng trước những cơ hội to lớn để phát triển như: mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ tiên tiến… Bên cạnh những cơ hội đó là những thách thức lớn do sức ép cạnh tranh ngày càng tăng trên cả thị trường thế giới và trong nước. Quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi Nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã hội phải nâng cao trình độ quản lý và hình thành một cơ chế quản lý phú hợp để phát triển một cách hiệu quả và bền vững.

Ngoài các yếu tố trên, còn nhiều yếu tố khác về kinh tế và xã hội cũng đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với quản lý ở việt nam như: sự phát triển dân số và nguồn lao động cả về quy mô và cơ cấu, yêu cầu bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường sinh thái và môi trường xã hội trong phát triển.

1.2.Khải niệm quản lý

Do vai trò đặc biệt quan trọng của quản lý đối với sự phát triển kinh tế, từ những năm 1950 trở lại đây đã xuất hiện rất nhiều công trình nghiên cứu về lý thuyết và thực hành quản lý với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có thể nêu ra một số cách tiếp cận sau:

a) Tiếp cận kiểu kinh nghiệm

Cách tiếp cận này phân tích quản lý bằng cách nghiên cứu kinh nghiệm, mà thông thường là thông qua các trường hợp cụ thể. Những người theo cách tiếp cận này cho rằng, thông qua việc nghiên cứu những thành công hoặc những sai lầm trong các trường hợp cá biệt của những nhà quản lý, người nghiên cứu sẽ hiểu được phải làm như thế nào để quản lý một cách hiệu quả trong trường hợp tương tự.

b) Tiếp cận theo hành vi quan hệ cá nhân

Cách tiếp cận theo hành vi quan hệ cá nhân dựa trên ý tưởng cho rằng quản lý là làm cho công việc được hoàn thành thông qua con người, và do đó, việc nghiên cứu nó nên tập trung vào các mối liên hệ giữa người với người.

c) Tiếp cận theo lý thuyết quyết định

Cách tiếp cận theo lý thuyết quyết định trong quản lý dựa trên quan điểm cho rằng, người quản lý là người đưa ra các quyết định, vì vậy cần phải tập trung vào việc ra quyết định. Sau đó là việc xây dựng lý luận xung quanh việc ra quyết định của người quản lý.

d) Tiếp cận toán học

Các nhà nghiên cứu theo trường phái này xem xét công việc quản lý trước hết như là một sự sử dụng các quá trình, ký hiệu và mô hình toán học. Nhóm này cho rằng, nếu như việc quản lý như xây dựng tổ chức, lập kế hoạch hay ra quyết định là một quá trình logic, thì nó có thể biểu thị được theo các ký hiệu và các mô hình toán học. Vì vậy, việc ứng dụng toán học vào quản lý sẽ giúp người quản lý đưa ra được những quyết định tốt nhất.

e) Tiếp cận theo các vai trò quản lý

Cách tiếp cận theo vai trò quản lý là một cách tiếp cận mới đối với lý thuyết quản lý thu hút được sự chú ý của cả các nhà nghiên cứu lý luận và các nhà thực hành. Về căn bản, cách tiếp cận này nhằm quan sát những cái mà thực tế các nhà quản lý làm và từ các quan sát như thế đi với những kết luận xác định hoạt động (hoặc vai trò) quản lý là gì…

Từ những cách tiếp cận khác nhau đó, có nhiều khái niệm khác nhau về quản như:

· Quản lý là nghệ thuật nhằm đạt được mục đích thông qua nỗ lực của người khác.

· Quản lý là hoạc động của các cơ ban quản lý nhằm đưa ra các quyết định.

· Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những cộng sự trong cùng một tổ chức.

· Quản lý là quá trình phối hợp các nguồn lực nhằm đạt được những mục đích của tổ chức.

· Hoặc đơn giản hơn nữa, quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó…

Theo cách tiếp cận hệ thống, mọi tổ chức (cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp…) đều có thể được xem như một hệ thống gồm hai phân hệ: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Mỗi hệ thống bao giờ cũng hoạt động trong môi trường nhất định (khách thể quản lý).

Từ đó có thể đưa ra khái niệm: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khác thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.
Sơ đồ: Logic của khải niệm quản lý
Sơ đồ: Logic của khải niệm quản lý



Với khái niệm trên, quản lý phải bao gốm các yếu tố (điều kiện) sau:

· Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra tác động và ít nhất một đối tượng quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý và các khách thể có quan hệ gián tiếp với chủ thể quản lý. Tác động có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần.

· Phải có một mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng quản lý và chủ thể quản lý. Mục tiêu này là căn cứ để chủ thể quản lý đưa ra các tác động quản lý.

· Chủ thể phải thực hành việc tác động và phải biết tác động. Vì thế, đòi hỏi chủ thể phải biết tác động và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả.

· Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, hoặc một cơ quan quản lý còn đối tượng quản lý có thể là con người (một hoặc nhiều người) giới vô sinh hoặc sinh vật.

· Khách thể là các yếu tố tạo nên môi trường của hệ thống.

1.3. Những phương diện cơ bản của quản lý.

Quản lý tổ chức thường được xem xét trên hai phương diện cơ bản: tổ chức- kỹ thuật và kinh tế - xã hội.

i. Xét về mặt tổ chức – kỹ thuật của hoạt động quản lý

Quản lý chính là sự kết hợp được mọi nỗ lực chung của mọi người trong tổ chức và sử dụng tốt nhất các nguồn lực của tổ chức để đạt tới mục tiêu riêng của mỗi người một cách khôn khéo và có hiệu quả nhất. Quản lý phải trả lời các câu hỏi: “Phải đạt được mục tiêu nào?” “Phải đạt mục tiêu như thế nào và bằng cách nào?”.

Quản lý ra đời chính là để tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn hẳn so với việc làm của từng cá nhân riêng lẻ. Nói một cách khác, thực chất của quản lý là quản lý con người trong tổ chức, thông qua đó sử dụng có hiệu quả tiềm năng và cơ hội của tổ chức.

Phương diện tổ chức – kỹ thuật của quản lý tổ chức cho thấy có nhiều điểm tương đồng trong hoạt động quản lý ở mọi tổ chức và đối với mọi nhà quản lý. Điều này giúp ta thấy quản lý là lĩnh vực hoạt động mang tính khoa học cao và có thể học tập để trở thành nhà quản lý.

ii. Xét về mặt kinh tế - xã hội của quản lý

Quản lý là các hoạt động chủ quan của chủ thể quản lý vì mục tiêu, lợi ích của tổ chức, đảm bảo cho tổ chức tồn tại và phát triển lâu dài. Mục tiêu của tổ chức do chủ thể quản lý đề ra, họ là những thủ lĩnh của tổ chức và là người nắm giữ quyền lực của tổ chức. Nói một cách khác, bản chất của quản lý tuỳ thuộc vào ý tưởng, nhân cách, nghệ thuật của người thủ lĩnh tổ chức nhằm trả lời câu hỏi “Đạt được mục tiêu, kết quả quản lý để làm gì?”. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Điểm khác biệt mang tính bản chất giữa quản lý các tổ chức thuộc các chủ sở hữu khác nhau chính là ở chỗ này.

Phương diện kinh tế - xã hội thể hiện đặc trưng của quản lý trong từng tổ chức. Nó chứng tỏ quản lý vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù đòi hỏi phải có những hình thức và biện pháp quản lý phù hợp với từng tổ chức.

1.4. Đặc điểm của quản lý

A. Quản lý là hoạt động dựa vào quyền uy của chủ thể quản lý
Để có thể tiến hành có hiệu quả hoạt động quản lý, chủ thể quản lý (Các tổ chức và cá nhân làm nhiệm vụ quản lý) phải có quyền uy nhất định. Quyền uy của chủ thể quản lý bao gồm:
· Quyền uy về tổ chức hành chính.
· Quyền uy về kinh tế.
· Quyền uy về trí tuệ.
· Quyền uy về đạo đức.
Một cơ quan quản lý mạnh, một nhà quản lý giỏi phải hội đủ cả bốn yếu tố quyền uy nêu trên.

B. Quản lý là hoạt động chủ quan của chủ thể quản lý

Các quyết định quản lý bao giờ cũng được xây dựng và ban hành bởi những tập thể và cá nhân những người quản lý cụ thể. Trong khi đó, đối tượng quản lý (nền kinh tế, doanh nghiệp) tồn tại và vận động theo những quy luật khách quan, vì vậy, hiệu quả của các quyết định quản lý tuỳ thuộc vào năng lực nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của chủ thể quản lý. Từ đây đặt ra yêu cầu phải lựa chọn những người có đủ phẩm chất và năng lực tham gia quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô.

C. Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối liên hệ ngược

Quản lý được tiến hành nhờ có thông tin. Thông tin chính là các tín hiệu mới được thu nhận, được hiểu và được đánh giá là có ích cho các hoạt động quản lý (tức là cho cả chủ thể quản lý và đối tượng quản lý). Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối tượng quản lý thì phải đưa ra các thông tin (mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết, quyết định…), đó chính là thông tin điều khiển. Đối tượng quản lý muốn định hướng hoạt động của mình thì phải tiếp nhận các thông tin điều khiển của chủ thể cùng các đảm bảo vật chất khác để tính toán và tự điều khiển mình (nhằm thực thi mệnh lệnh của chủ thể quản lý). Vì vậy, quá trình quản lý là một quá trình thông tin.

Đối với chủ thể quản lý, sau khi đã đưa ra các quyết định cùng các bảo đảm vật chất cho đối tượng quản lý thực hiện, thì họ phải thường xuyên theo dõi kết quả thực hiện các quyết định của đối tượng quản lý thông qua các thông tin phản hồi (được gọi là các mối liên hệ ngược) của quản lý.

Quá trình lý thường bị đổ vỡ vì các luồng thông tin phản hồi bị ách tắc (bị bóp méo, bị cắt xén, bị ngăn chặn).

D. Quản lý là một khoa học, một nghệ thuật, một nghề

* Quản lý là một khoa học

Nói quản lý là một khoa học vì quản lý có đối tượng nghiên cứu riêng là các mối quan hệ quản lý. Quan hệ quản lý là quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong toàn bộ nền kinh tế cũng như từng lĩnh vực riêng biệt. Các quan hệ quản lý mang tính chất kinh tế, chính trị, tâm lý, xã hội, tổ chức, hành chính…

Quản lý có phương pháp luận nghiên cứu riêng và chung, đó là quan điểm triết học Mác-Lênin, quan điểm hệ thống và các phương pháp cụ thể: phân tích, toán kinh tế, xã hội học…

Tính khoa học của quản lý thể hiện ở quan điểm và tư duy hệ thống, tôn trọng quy luật khách quan, lý luận gắn với thực tiễn. Chỉ có nắm vững khoa học thì người quản lý mới có đầy đủ bản lĩnh, vững vàng trong mọi tình huống, nhất là trong điều kiện đầy biến động và phức tạp của nền kinh tế thị trường.

Gọi là một khoa học còn là kết quả của hoạt động nhận thức đòi hỏi phải có một quá trình, phải tổng kết rút ra bài học và không ngừng hoàn thiện. Khoa học quản lý là những lý luận quản lý đã đc hệ thống hoá. Vì vậy, đề quản lý có hiệu quả nhà quản lý phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ của mình.

* Quản lý là một nghệ thuật

Hoạt động quản lý là một lĩnh vực thực hành, giống như mọi lĩnh vực thực hành khác (dù là y học, soạn nhạc, kỹ thuật công trình...) đều là nghệ thuật. Đó là “bí quyết hành nghề”. Nó phụ thuộc vào từng nhà quản lý, vào tài năng, kinh nghiệm của họ. Nghệ thuật quản lý cách giải quyết công việc trong điều kiện thực tại của tình huống mà lý luận quản lý và sách vở không chỉ ra hết được. Nghệ thuật quản lý bao gồm nghệ thuật sử dụng phương pháp, công cụ quản lý, nghệ thuật dùng người, nghệ thuật giao tiếp ứng xử, nghệ thuật sử dụng các mưu kế, kinh nghiệm của người xưa… Nghệ thuật do kinh nghiệm tích luỹ được và do sự mẫn cảm, tài năng của từng nhà quản lý. Thực tiễn cho thấy, nếu nhà quản lý chỉ đơn thuần nắm vững lý thuyết quản lý mà không nhanh nhạy xử lý các tính huống bằng tài nghệ của mình thì sẽ dẫn đến giáo điều, bảo thủ, bỏ lỡ thời cơ không đạt được hiệu quả cao trong công việc. Ngược lại, nếu chỉ có nghệ thuật bằng kinh nghiệm và khả năng của mình mà thiếu căn cứ khoa học và cơ sở thông tin thì mặc dù trong một số tính huống có thể giải quyết nhanh chóng công việc, nhưng về cơ bản và lâu dài kết quả sẽ thiếu vững chắc và sẽ bó tay khi có những vấn đề cần giải quyết vượt ra khỏi tầm kinh nghiệm.

Như vậy, trong quản lý cũng như các lĩnh vực thực hành khác, khoa học và nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khoa học càng tiến bộ thì nghệ thuật càng hoàn thiện. Có thể nói rằng, cho tới nay ngành khoa học làm cơ sở cho công tác quản lý còn khá sơ sài trong khi tình huống trong thực tế phải xửa lý cực kỳ phức tạp buộc người quản lý phải vận dụng nhiều hơn tài năng, kinh nghiệm. Thực trạng này đòi hỏi các nhà khoa học phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận quản lý để không ngừng nâng cao tính khoa học của quản lý. Mặt khác, các nhà quản lý cần học tập và vận dụng kiến thức quản lý để hoàn thiện hoạt động quản lý của mình, phải chú ý đúc rút kinh nghiệm từ những thành công và thất bại, rèn luyện kỹ năng xử lý các tình huống trong quản lý.

* Quản lý là một nghề (Nghề quản lý)

Đặc điểm này đòi hỏi các nhà quản lý phải có trithức quản lý qua tự học, tự tích luỹ và qua các quá trình được đào tạo ở các cấp độ khác nhau, hoặc ít nhất họ phải có các chuyên gia về quản lý làm trợ lý cho họ. Đồng thời nhà quản lý phải có niềm tin và lương tâm nghề nghiệp.

2. MỤC TIÊU QUẢN LÝ

2.1. Khái niệm

Tác động có hướng đích là một trong những đặc trưng của quản lý đối với bất kỳ hệ thống nào. Mọi chi phí, mọi cố gắng sẽ trờ nên vô ích khi hệ thống đi chệch hướng, không vận động đến mục tiêu. Việc xác định không đúng hoặc không nắm vững mục tiêu của hệ thống sẽ gây ra những lãng phí, thiệt hại và kìm hãm sự phát triển của hệ thống.

Mục tiêu quản lý được hiểu là trạng thái mong đợi, có thể có của đối tượng quản lý (hệ thống) tại một thời điểm nào đó trong tương lai hoặc sau một thời gian nhất định.

Mục tiêu quản lý mang tính khách quan. Nó được đề ra trên cơ sở những đòi hỏi của các quy luật khách quan đang chi phối sự vận động của hệ thống. Đồng thời, mục tiêu quản lý chịu ảnh hưởng của nhân tố chủ quan vì mục tiêu quản lý do chủ thể quản lý đề ra và được cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu cụ thể. Vì vậy đề đề ra mục tiêu đúng, chủ thể quản lý phải nhận thức và vận dụng đúng đắn hệ thống quy luật khác quan phù hợp với các điều kiện cụ thể của hệ thống. Với nhà quản lý, mục tiêu quản lý là cái đích phải đạt tới sau một quá trình phấn đấu thực hiện hàng loạt các chức năng, các phương pháp quản lý.

2.2. Vai trò của mục tiêu quản lý

Mục tiêu quản lý là cái đích phải đạt tới của quá trình quản lý, nó địnhhướng và chi phối sự vận động của toàn bộ hệ thống quản lý. Mọi quá trình quản lý (quản lý nền kinh tế, quản lý ngành, quản lý địa phương, quản lý doanh nghiệp…) đều bắt đầu từ việc đề ra mục tiêu quản lý dựa trên sự phân tích tình hình thực tế của đối tượng quản lý, khả năng và xu hướng phát triển của nó. Vai trò của mục tiêu quản lý được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
· Mục tiêu quản lý là điểm xuất phát quyết định diễn biến của một quá trình quản lý.
· Xác định hệ thống mục tiêu quản lý là một căn cứ quan trọng để hình thành hệ thống quản lý.
· Mục tiêu quản lý là cơ sở của mọi tác động quản lý. Từ mục tiêu, người quản lý sẽ đề ra hàng loạt các giải pháp, các quyết định để thực hiện mục tiêu.
· Mục tiêu quản lý qui tụ lợi ích của hệ thống. Xác định đúng và phấn đầu đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra sẽ đảm bảo dược các lợi ích cơ bản của cá nhân, tập thể và xã hội.

2.3. Phân loại mục tiêu quản lý

a. Theo nội dung hoạt động trong lĩnh vực quản lý

Có các loại mục tiêu
· Mục tiêu kinh tế, là những mục tiêu thuộc lĩnh vực kinh tế như lợi ích kinh tế, lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế…
· Mục tiêu khoa học – công nghệ, thể hiện ở những tiến bộ khoa học - công nghệ sẽ đạt được trong lĩnh vực kinh tế và quản lý.
· Mục tiêu xã hội, thể hiện ở trình độ thoả mãn các nhu cầu của người lao động về mặt phát triển xã hội.
· Mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái nhằm đảm bảo môi trường sống cho con người và phát triển kinh tế, xã hội một cách bền vững.

b. Theo thời gian thực hiện

Có các mục tiêu trước mắt, mục tiêu quá độ và mục tiêu lâu dài. Các mục tiêu lâu dài là cơ sở, định hướng chiến lược để hoạch định, sắp xếp các mục tiêu trước mắt, mục tiêu quá độ. Ngược lại, phải trên cơ sở thực hiện tốt các mục tiêu cụ thể ở từng thời điểm mới có thể đạt được các mục tiêu lâu dài.

c. Xét theo tính chất của các mục tiêu

Có các mục tiêu chiến lược và mục tiêu sách lược.

Mục tiêu chiến lược là mục tiêu gắn với một quá trình lâu dài, chi phối và khẳng định bản chất, trình độ, chất lượng của hệ thống trong tương lai. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược đúng đắn, hợp quy luật và điều kiện thực tế của hệ thống và môi trường mà xác định các mục tiêu sách lược ở từng thời điểm cụ thể. Nhờ đạt được các mục tiêu sách lược mà từng bước giúp hệ thống đạt được các mục tiêu chiến lược.

d. Xét theo cấp quản lý, có các mục tiêu
Mục tiêu của toàn bộ nền kinh tế.
Mục tiêu của ngành, lĩnh vực.
Mục tiêu của địa phương.
Mục tiêu của doanh nghiệp.

2.4. Quản lý theo mục tiêu

Trong nền kinh tế thị trường, quản lý theo mục tiêu là một phương thức quản lý hiện đại và có hiệu quả cao. Theo mô hình này, với mỗi hệ thống khác nhau, vấn đề trước hết và quan trọng nhất là phải xác định chính xác mục tiêu chung của hệ thống, của từng bộ phận trong hệ thống. Sau khi có mục tiêu, phải quán triệt đến người thực hiện giúp họ nắm vững mục tiêu và các vấn đề liên quan đến mục tiêu, tiếp đó hướng dẫn cấp dưới về bước đi và phương pháp thực hiện, tạo mọi điều kiện cần thiết cho quá trình thực hiện mục tiêu. Các giải pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu cấp trên có thể giao cho cấp dưới chủ động thực hiện mục tiêu mà không cần can thiệp vào những hoạt động mang tính nghiệp vụ của người thực hiện.

Đối với các hệ thống lớn có thể hình thành mô hình quản lý “cây mục tiêu”. “Cây mục tiêu” là sự trình bày bằng sơ đồ mối liên hệ giữa các mục tiêu và phương tiện để đạt mục tiêu của một hệ thống.

Mỗi “cây mục tiêu” bao gồm mục tiêu của một số cấp: mục tiêu chung- mục tiêu bộ phận cấp 1- mục tiêu bộ phận cấp 2… Trong đó, mỗi mục tiêu cấp dưới có vai trò là phương tiện để đạt được mục tiêu cấp trên. Dựa vào mô hình này, các nhà quản lý chủ động phân phối, bố trí các nguồn lực, tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu chung của hệ thống.

Sơ đồ 2: “Cây quyết định”


Quản lý theo mục tiêu có những lợi ích sau:

* Quản lý theo mục tiêu đảm bảo cho công tác quản lý đạt hiệu quả cao.

Việc quản lý theo mục tiêu buộc các nhà quản lý phải xây dựng kế hoạch để đạt được mục tiêu, tính toán phân bổ các nguồn lực, tổ chức bộ máy và con người cần cho việc thực hiện mục tiêu. Đó là những yếu tố đảm bảo cho công tác quản lý đạt hiệu quả cao.

* Quản lý theo mục tiêu đảm bảo cho tổ chức được phân định rõ ràng.

Quản lý theo mục tiêu đòi hỏi các nhà quản lý phải phân định rõ các chức vụ và cơ cấu tổ chức, phân chia các quyền hạn trong tổ chức theo các kết quả mà họ mong đợi, nhờ đó tổ chức được phân định rõ ràng.

* Quản lý theo mục tiêu cho phép khai thác được tính năng động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tổ chức.

Phương thức quản lý theo mục tiêu giúp cho các cá nhân trong tổ chức có được những mục tiêu được xác định rõ ràng. Họ được tham gia vào việc đề ra mục tiêu cho họ, hiểu được quyền hạn, trách nhiệm của họ, những điều kiện để thực hiện mục tiêu. Đó là những yếu tố làm cho mọi người có trách nhiệm cao đối với công việc của mình.

* Quản lý theo mục tiêu đảm bảo cho công tác kiểm tra đạt hiệu quả cao hơn.

Công tác kiểm tra gắn liền với việc đo lường các kết quả và tiến hành điều chỉnh những sai lệch so với kế hoạch để đảm bảo đạt được các mục tiêu. Vì vậy, việc xác định chính xác hệ thống mục tiêu của tổ chức là cơ sở quan trọng triển khai có hiệu quả công tác kiểm tra.

3. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu của khoa học quản lý

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Khi xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý cần phải xuất phát từ thực chất của quá trình quản lý với tư cách là một chức năng xã hội. Trong quá trình quản lý, con người hoạt động trong những mối liên hệ nhất định với nhau.

Đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý là các quan hệ quản lý trong nền kinh tế quốc dân. Quan hệ quản lý là quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong toàn bộ nền kinh tế giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý trong toàn bộ nền kinh tế cũng như ở từng cấp và từng lĩnh vực riêng biệt.

Là một mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ quản lý trước hết là một dạng của quan hệ kinh tế, ngoài ra quan hệ quản lý còn bao hàm trong nó các quan hệ mang tính chất tổ chức, hành chính, công nghệ, tâm lý, xã hội, pháp luật…

Nhiệm vụ nghien cứu của khoa học quản lý là tìm ra những qui luật của hoạt động quản lý, từ đó xác định các nguyên tắc, chính sách, công cụ, phương pháp và các hình thức tổ chức quản lý để không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng quản lý.

3.2. Nội dung của khoa học quản lý

Khoa học quản lý nghiên cứu những nội dung quản lý. Những nội dung chủ yếu:
· Cơ sở lý luận và phương pháp luận của quản lý:
Bản chất quản lý.
Vận dụng lý thuyết hệ thống trong quản lý.
Các phương pháp quản lý.
· Cơ sở tổ chức của quản lý:
Chức năng quản lý.
Cơ cấu tổ chức quản lý.
Cán bộ quản lý.
· Quá trình quản lý:
Mục tiêu quản lý.
Thông tin quản lý.
Quyết định quản lý.

3.3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu của khoa học quản lý là cách thức nghiên cứu các quan hệ quản lý nhằm tìm ra những tính quy luật của quản lý, từ đó đề ra các nguyên lý, nguyên tắc, phương pháp và công cụ quản lý để người quản lý có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý. Là một môn khoa học xã hội, có tính chất ứng dụng mang tính liên ngành, khoa học quản lý sử dụng các phương pháp sau nghiên cứu các quan hệ quản lý:

* Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Là phương pháp cơ bản làm nền tảng lý luận của người lãnh đạo và quản lý.
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin
cung cấp cho nhà quản lý phương pháp nhận thức đối tượng khách quan cùng với sự
vận động và phát triển của đối tượng quản lý hết sức đa dạng và sinh động với hàng
loạt mâu thuẫn nảy sinh phải giải quyết.

* Phương pháp phân tích hệ thống:

Là phương pháp nghiên cứu chủ yếu của khoa học quản lý. Phương pháp phân tích hệ thống trong khoa học quản lý đước đặc trưng bởi các nội dung sau:

Xem tổ chức như một hệ thống mở, vận động và tồn tại theo những quy luật khác quan. Hệ thống này bao gồm nhiều bộ phận, nhiều nhân tố ảnh hưởng trong mối quan hệ tác động qua lại để tạo thành một chỉnh thể. Nếu một nhân tố, một bộ phận nào đó có “vấn đề” sẽ ảnh hưởng đến các nhân tố và bộ phận khác và đến cả hệ thống.

Tổ chức không chỉ là một hệ thống nói chung mà là hệ thống kinh tế - xã hội.

“Vấn đề” không cố định ở một nhân tố, hoặc bộ phận nào của tổ chức mà luôn biến động. Giải quyết tốt vấn đề của nhân tố hoặc một bộ phận này có thể lại xuất hiện vấn đề thuộc nhân tố hoặc bộ phận khác.

Động lực phát triển chủ yếu của tổ chức là những nhân tố bên trong tổ chức.

Để nghiên cứu, quản lý thường được phân tích thành các chức năng quản lý.

Tiêu chí để hình thành các chức năng quản lý là quá trình quản lý và các lĩnh vực của hoạt động quản lý.

* Phương pháp mô hình hoá.

Là phương pháp tái hiện những đặc trung của một đối tượng nghiên cứu bằng một mô hình khi việc nghiên cứu chính đối tượng đó không thể thực hiện được. Nó cho phép người nghiên cứu nắm bắt được những yếu tố cơ bản và quan hệ cơ bản một cách phổ quát, đơn giản, nhanh chóng và hiệu quả. Trong khoa học quản lý thường sử dụng mô hình toán học theo công thức toán, các hình vẽ hoặc sơ đồ. Ví dụ dùng ký thuật ước lượng và kiểm tra dự toán (P.E.R.T: Program Evalution and Review Technique).

* Phương pháp thực nghiệm

Là phương pháp làm thử một phương án để xem cái gì sẽ xảy ra, nếu đúng thì tiếp tục hoạt động, nếu sai thì sửa chữa hoặc lựa chọn phương án khác. Thực tiễn quản lý hết sức sinh động. Các quyết định quản lý cho dù được soạn thảo và nghiên cứu công phu, chặt chẽ đến đâu cũng chưa chắc phú hợp với điều kiện khách quan, do đó bằng phương pháp thực nghiệm có thể rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên không nên quá làm dụng phương pháp này vì dễ dẫn đến sai lầm và những tổn thất nhiều khi khó khắc phục được.

Ngoài ra, khoa học quản lý còn sử dụng nhiều phương pháp khác như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp toán kinh tế, phương pháp toán thống kê, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp tâm lý, phương pháp lịch sử…

Xem thêm